Sunday, January 31, 2010
Sunday, November 27, 2005
NGÔI TRƯỜNG THÁNG GIÊNG và những tác phẩm khác
Trần Xuân An
NGÔI TRƯỜNG THÁNG GIÊNG
và những tác phẩm khác
TRÂN TRỌNG KÍNH MỜI TRUY CẬP THÊM
CÁC ĐỊA CHỈ WEBs / BLOGs
(xin bấm vào các đường LINKs CẬP NHẬT
sau đây):
I. THƠ : ______________________
________________________________________________
http://tranxuananthitap9.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap4.blogspot.com/
http://tranxuananthitap3.blogspot.com/
http://tranxuananthitap6.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
http://tranxuananthitap2.blogspot.com/
http://tranxuanantruongcatho7.blogspot.com/
http://tranxuananthitap5.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap1.blogspot.com/
II. TIỂU THUYẾT : _____________
________________________________________________
http://tranxuananngoitruongthgieng.blogspot.com/
http://tranxuanansendobthhbinh.blogspot.com/
http://tranxuanancmnlamaixanh.blogspot.com/
http://tranxuanancmnlamaix2.blogspot.com/
III. PHÊ BÌNH – TIỂU LUẬN : ___
________________________________________________
http://tacphamtranxuanangiaodiem.blogspot.com/
http://tranxuanantieuluan.blogspot.com/
http://tranxuanantieuluan9b.blogspot.com/
http://tranxuananbinhtho.blogspot.com/
IV. TRUYỆN – SỬ KÍ –
KHẢO CỨU TƯ LIỆU LỊCH SỬ : ____________
________________________________________________
http://tranxuananpcdtnvt1a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2b.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2c.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt3a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt3b.blogspot.com/
và những LINKs kế tiếp của bộ sách
"Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886)"
- trọn bộ gồm 4 tập, 985 trang sách, cỡ 16 cm x 24 cm -
(đã được cập nhật [ updated ] ngày 21 tháng 12-2005 [ HB5 ]):
http://tranxuananpcdtnvt4a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt4b.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt4c.blogspot.com/
V. TRANG PHỤ : PHẢN HỒI : ĐỒNG CẢM - TRAO ĐỔI
- LÀM RÕ & ĐÍNH CHÍNH : ___________
________________________________________________
http://tranxuanan-trphu.blogspot.com/
HOẶC CÓ THỂ BẤM VÀO DÒNG CHỮ
VIEW MY COMPLETE PROFILE
Ở BẢNG ABOUT ME
[ có thể xem như trang chủ { # homepage # } ] –
http://www.blogger.com/profile/14904482
– ĐỂ TỪ CÁC ĐƯỜNG LINKs TẠI ĐÓ,
ĐỌC NHỮNG TÁC PHẨM KHÁC CỦA TÁC GIẢ
TRÊN WEBs / BLOGGER.
NGOÀI RA, CÓ THỂ TRUY CẬP THÊM
CÁC TÁC PHẨM SÁNG TÁC, KHẢO LUẬN, BIÊN SOẠN
CỦA TÁC GIẢ
TRÊN TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ GIAO ĐIỂM
(xin bấm vào các đường LINKs sau đây):
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1205_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_txa-ky-content.htm
Trân trọng và cảm ơn.
Tác giả,
Trần Xuân An
NGÔI TRƯỜNG THÁNG GIÊNG
và những tác phẩm khác
TRÂN TRỌNG KÍNH MỜI TRUY CẬP THÊM
CÁC ĐỊA CHỈ WEBs / BLOGs
(xin bấm vào các đường LINKs CẬP NHẬT
sau đây):
I. THƠ : ______________________
________________________________________________
http://tranxuananthitap9.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap4.blogspot.com/
http://tranxuananthitap3.blogspot.com/
http://tranxuananthitap6.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
http://tranxuananthitap2.blogspot.com/
http://tranxuanantruongcatho7.blogspot.com/
http://tranxuananthitap5.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap1.blogspot.com/
II. TIỂU THUYẾT : _____________
________________________________________________
http://tranxuananngoitruongthgieng.blogspot.com/
http://tranxuanansendobthhbinh.blogspot.com/
http://tranxuanancmnlamaixanh.blogspot.com/
http://tranxuanancmnlamaix2.blogspot.com/
III. PHÊ BÌNH – TIỂU LUẬN : ___
________________________________________________
http://tacphamtranxuanangiaodiem.blogspot.com/
http://tranxuanantieuluan.blogspot.com/
http://tranxuanantieuluan9b.blogspot.com/
http://tranxuananbinhtho.blogspot.com/
IV. TRUYỆN – SỬ KÍ –
KHẢO CỨU TƯ LIỆU LỊCH SỬ : ____________
________________________________________________
http://tranxuananpcdtnvt1a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2b.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2c.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt3a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt3b.blogspot.com/
và những LINKs kế tiếp của bộ sách
"Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886)"
- trọn bộ gồm 4 tập, 985 trang sách, cỡ 16 cm x 24 cm -
(đã được cập nhật [ updated ] ngày 21 tháng 12-2005 [ HB5 ]):
http://tranxuananpcdtnvt4a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt4b.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt4c.blogspot.com/
V. TRANG PHỤ : PHẢN HỒI : ĐỒNG CẢM - TRAO ĐỔI
- LÀM RÕ & ĐÍNH CHÍNH : ___________
________________________________________________
http://tranxuanan-trphu.blogspot.com/
HOẶC CÓ THỂ BẤM VÀO DÒNG CHỮ
VIEW MY COMPLETE PROFILE
Ở BẢNG ABOUT ME
[ có thể xem như trang chủ { # homepage # } ] –
http://www.blogger.com/profile/14904482
– ĐỂ TỪ CÁC ĐƯỜNG LINKs TẠI ĐÓ,
ĐỌC NHỮNG TÁC PHẨM KHÁC CỦA TÁC GIẢ
TRÊN WEBs / BLOGGER.
NGOÀI RA, CÓ THỂ TRUY CẬP THÊM
CÁC TÁC PHẨM SÁNG TÁC, KHẢO LUẬN, BIÊN SOẠN
CỦA TÁC GIẢ
TRÊN TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ GIAO ĐIỂM
(xin bấm vào các đường LINKs sau đây):
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1205_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_txa-ky-content.htm
Trân trọng và cảm ơn.
Tác giả,
Trần Xuân An
Wednesday, November 23, 2005
NGÔI TRƯỜNG THÁNG GIÊNG (phần IV)
TRẦN XUÂN AN
NGÔI TRƯỜNG THÁNG GIÊNG
trọn cuốn tiểu thuyết gồm 4 phần
(I [không ghi số], II, III & IV)
XIN VUI LÒNG ĐỌC TỪNG PHẦN TỪ DƯỚI LÊN TRÊN
THEO SỐ THỨ TỰ CỦA MỖI PHẦN
phần IV
(tiếp theo phần III [đoạn 21 – đoạn 33])
34
Nắng ban mai tháng tư vàng rực. Hôm nay học sinh đến trường hơi muộn so với thường lệ. Sáng thứ năm, nhưng các em không mang theo cuốc, xẻng, xà bất. Trên sân trường cũng chỉ là học sinh cấp hai cùng rất ít học sinh năng khiếu ngữ văn cấp một.
Khoảng bảy giờ rưỡi, Hoán, Hạ, Nam, Khoai và Nghệ đã tháo dỡ xong bức ván gỗ ngăn hai phòng học để có một hội trường. Huyện hướng dẫn học sinh lớp chín khiêng thêm bàn ghế vào, sắp xếp lại cho ngay ngắn.
Lộc Biếc cùng Lụa đang gắn nốt các vuông giấy nhỏ được gấp làm tư, với một đoạn chỉ xâu qua, vào một cành cây xanh lá được chôn hẳn gốc của nó xuống nền đất lớp học, phía phải bảng đen, đối xứng với bàn giáo viên. Thoạt nhìn, cứ ngỡ như cây xanh tốt đã mọc ở đó lâu lắm rồi, đang trổ một thứ hoa lạ, cánh giấy và nhụy chữ!
Ka Kring cùng Suối Vui, Đồi Hương, Trăng Thu dùng phấn màu viết các dòng chữ theo mẫu trang trí lên bảng đen, phía dưới dòng chữ khác đã được cắt dán bằng giấy thủ công. Một huy hiệu Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh bằng tôn dày được sơn kẻ khá đẹp do Huyện đoàn phân phối, được treo ngay giữa phần trên tấm bảng. Huy hiệu ấy cỡ bằng vành lớn của chiếc nón lá. Ka Kring quả là có năng khiếu hội họa.
Tám giờ, sau tiếng kẻng của Hạ, học sinh quàng khăn đỏ tập hợp trước hai cửa của hội trường, ban giám khảo cũng ngồi sẵn ở hai dãy ghế đầu.
Cô Lụa ổn định các chi đội bằng một bài hát. Sau đó là nghi thức Đội do Lụa và em Ngày điều khiển. Hai ngọn đuốc bập bùng cháy do hai đội viên khác đứng cầm hai bên cây dân chủ trổ hoa bằng giấy. Cô giáo Lụa, lúc này đang làm chức năng chị tổng phụ trách liên chi Đội, lĩnh xướng. Ngày, liên chi đội trưởng, đọc một bài văn vần với giọng đọc bổng trầm. Trước khung cảnh và không khí ấy, Nam khẽ rùng mình xúc động. Anh ngỡ đang dự một buổi lễ tôn giáo! Đây là lần thứ hai Nam có cảm giác kì lạ này. Lần trước, ấy là buổi lễ kết nạp đội viên, thi hái hoa dân chủ nhằm tìm hiểu lịch sử Đội và lần này. Được đào tạo theo hệ giáo viên cấp ba, đối tượng giảng dạy là tuổi thanh niên (từ mười sáu tuổi đến mười tám tuổi), nên Nam không hiểu, cứ tự thắc mắc, chẳng biết nghi thức Đội vốn thế hay do Lụa với Ngày đã phả vào đó chất tôn giáo, nhất là cách diễn xướng như thể kinh kệ. Nam cũng từng biết, khung cảnh, không khí chùa chiền, giáo đường, am miếu, thánh thất cùng kinh kệ và đức tin tín ngưỡng đã dẫn đưa tín đồ, đạo hữu vào cảm xúc huyền bí thế nào, thậm chí họ còn bị tác động đến mức lên đồng, nhập cốt. Âm nhạc tôn giáo cũng là một ma lực!
Nhưng đến nay, Đội Thiếu niên ở trường Bảo Nghĩa chưa có dàn trống ếch rộn rã, hùng tráng!
Nam mỉm cười khi nghi thức Đội chấm dứt. Lộc Biếc nói vài lời khai mạc cuộc thi đọc diễn cảm văn học. Cô cùng Ka Kring đã chuẩn bị gần một tháng nay cho các em. Đây là cuộc thi nhằm rèn luyện cho học sinh một kĩ năng văn chương. Lộc Biếc nói, cảm thụ văn chương tốt sẽ đọc diễn cảm tốt, và ngược lại, đọc diễn cảm tốt sẽ giúp các em cảm thụ tốt hơn. Qua cuộc thi, Lộc Biếc hi vọng thầy cô, các thành viên ban giám khảo, gồm anh Giảng, anh Quỳnh, anh Ruộng, cô Lụa, sẽ thấy được nội lực văn chương của các em, của từng em ở mức nào. “Văn là người (bút pháp là người)”, đọc diễn cảm cũng là người, trong chừng mực nào đó. Với kì thi ngoại khóa này, Lộc Biếc nói, cô tin học sinh sẽ thú vị với ngữ văn hơn. Tiếp theo, Ka Kring chỉ nói ngắn gọn: “Văn chương là phần hồn, là bản sắc và bản lĩnh dân tộc. Người không học, không yêu thích văn chương sẽ không có tâm hồn. Người không có tâm hồn thật đáng sợ”.
Nam ngỡ như Ka Kring tự định nghĩa chính xác và trung thực về chính cô: chính văn hóa – lịch sử Việt Nam đã sinh nở, bú mớm và nuôi dạy phần hồn, bản sắc và bản lĩnh, của Ka Kring!
Rồi Ka Kring hướng dẫn cách hái hoa dân chủ – văn học cho các em. Cuối cùng, trước khi bắt đầu cuộc thi do Ngày, liên chi đội trưởng, điều khiển, Ka Kring lại nhấn mạnh phạm vi rộng và hẹp của cuộc thi: các bài trích giảng về nhiều đề tài, các bài tự chọn khác về Mẹ Việt Nam.
Từng học sinh dự thi lên hái hoa. Trong vuông giấy nhỏ là một câu hỏi về kiến thức văn học, một đầu đề bài đọc bắt buộc. Mỗi em hái một bông hoa bằng giấy, trả lời, đọc bài được yêu cầu với trang sách do hai cô giáo thay nhau đưa cho, sau đó, tiếp tục đọc bài tự chọn về Người mẹ Việt Nam.
Những bài trích giảng văn học cổ như Hịch Tướng sĩ, Đại cáo bình Ngô, cả Kiều, Lục Vân Tiên, cả ca dao về lao động, về phong cảnh quê hương, Đất nước, xen lẫn với Bầm ơi, Mẹ Tơm, Mẹ Suốt của Tố Hữu, thơ Dương Hương Ly, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Khoa Điềm về Mẹ và các đề tài khác, lại có cả tuồng Nghêu Sò Ốc Hến, cả văn xuôi Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Anh Đức, Nguyễn Thi …
Nam và Khoai cũng đọc diễn cảm phụ họa, giúp tăng cường không khí văn nghệ. Là hai người làm thơ, họ đọc hay đến không ngờ. Thì ra, để đọc hay, chất giọng chỉ một phần, phần khác, đó là năng lực nhập thân, năng lực nghệ sĩ, và trình độ ngôn ngữ, cả vốn sống trải nghiệm, đáng kể nữa, là kinh nghiệm sáng tác. Nội lực đã cứu giọng vịt cồ của Khoai!
Suốt gần ba tiếng đồng hồ, chỉ giải lao tại chỗ năm phút, bằng vài bài hát vui tập thể, hội trường tự quản bởi các em (Ngày vẫn là nhân vật nổi bật nhất), đã tạo được sinh khí văn chương như một ngày hội Tao Đàn nhưng không cung đình.
Nam vẫn cứ thú vị, tâm đắc mãi một câu hỏi trong đóa hoa bằng giấy: “Tại sao rất ít bài thơ viết về cha, trong khi đó hầu như không nhà thơ nào không viết về mẹ?” . Nam chợt nhớ, đã có thời anh đã lấy bút danh với ý nghĩa là Người mẹ, theo một biểu tượng cổ điển, cây cỏ huyên trước nhà – ngôi nhà của mẹ.
Câu hỏi ấy, câu hỏi quá khó, nhưng rất dễ, ai cũng có thể trả lời được, nếu thật hồn nhiên. Một học sinh giỏi văn lại không trả lời được, bởi em bị mắc kẹt trong kiến thức, mãi dẫn chứng, suy luận.
Cuối cuộc thi, về giải tập thể, giải cá nhân, lớp Huyện phụ trách chủ nhiệm, tuy là lớp chín, lại yếu nhất. Khi vãn cuộc, học sinh ra về, giáo viên ở lại dọn dẹp hội trường, Lụa nói vô tình: ““Thầy sao trò vậy”! Bốn lớp do bốn giáo viên chủ nhiệm mang rõ dấu ấn của bốn thầy cô giáo”. Huyện chạnh lòng, chột dạ. Huyện liên hệ với câu nói của Ka Kring hồi nãy, về phần hồn của con người là văn chương, anh đâm ra tự bực mình.
- Sao không có học sinh năng khiếu về các môn tự nhiên, khoa học thuần lí và khoa học thực nghiệm?– Ka Kring lại vui miệng hỏi –.
- Có chứ. Nhưng khoa học tự nhiên của mình đều dạy và học “chay”. Học hóa học, lại chẳng có một hóa chất!… “Khoa học – kĩ thuật là then chốt” đấy!– Huyện cười mỉa –. Đất nước mãi nghèo, vì sính văn chương, kém khoa học – kĩ thuật.
- Hồn và xác! Xác rất quan trọng. Khoa học tự nhiên lo phần xác, phải vậy không?– Ka Kring chịu thua –. Có điều, văn học, trong đó có lí luận, đơn cử như nghiên cứu về nghệ thuật đọc diễn cảm, bao gồm cả kĩ thuật của nghệ thuật này, cũng là khoa học! Nhưng công nghệ … Vâng, then chốt nhất là các khoa học tự nhiên!– Cô mỉm cười gỡ gạc cho vui –.
Dẫu sao, câu nói “thầy sao trò vậy” của Lụa cũng làm đau lòng Huyện không ít. Cùng với Hạ và các giáo viên nam, Huyện vừa dựng lại bức ván gỗ ngăn thành hai lớp học như cũ, vừa ngẫm câu nói của Ka Kring trước cuộc thi. Huyện thấy, quả thật anh không yêu nghề giáo lắm. Huyện vốn là con trai của một bà mẹ – bác sĩ, của một người cha – y tá. Hai người anh của Huyện lại là luật sư, chỉ riêng Huyện thích ngành y dược. Đỗ tú tài xong, Huyện thi vào Đại học Y khoa Huế, vì ở Huế không có Khoa Dược. Đang học dự bị y khoa, Huyện lại bị chuyển qua Khoa Hóa Đại học Sư phạm Huế, sau Ngày Giải phóng. Phải chăng, vì không có chí nguyện làm nhà giáo, Huyện không quan tâm lắm đến học sinh lớp anh chủ nhiệm. Qua phong trào thi đua “Về thăm Lăng Bác” vào dịp Ba mươi Tháng tư và Mươi chín Tháng năm được phát động đầu năm học đến nay, Huyện càng thấy rõ điều đó.
Vặn xong chiếc bù loong cuối vào cột gỗ cho bức vách ván ngăn phòng học vào đúng vị trí, Huyện càng đăm chiêu về “phần hồn” của mình. Giả như anh là một bác sĩ, anh không có tâm hồn, anh thật đáng sợ, nói rõ ra là nguy hiểm sao! Quả thật, Huyện không yêu văn chương! Anh nào quan tâm gì đến các giá trị tình cảm cao đẹp do văn học nghệ thuật phản ánh, các giá trị tư tưởng sâu sắc mang tính nhân văn chủ nghĩa được thể hiện qua những hình tượng văn chương! Anh chỉ say mê hóa học, sống theo tập quán tự nghìn đời, chưa đủ ư?
Huyện lững thững theo các bạn đồng nghiệp lên nhà tập thể. Khát vọng nghiên cứu, bào chế và sản xuất hóa dược lại réo sôi trong trái tim anh. Hạnh phúc là chọn chỗ đứng thích hợp với mình, Huyện nghĩ.
35
Lúc ngồi tổng hợp điểm thi các bộ môn vào giữa học kì hai, so sánh với các lớp, Huyện đã phát cáu. Anh càng cáu thêm khi đối sánh các mặt thi đua “hai tốt” khác, trong đó có vấn đề học sinh cá biệt chậm tiến. Lớp chín do Huyện chủ nhiệm – anh đã thay cho Lộc Biếc từ trước đại hội, buổi báo cáo chuyên đề của cô đầu học kì một – vốn có hai học sinh cá biệt khiến anh bực mình không ít. Nhi, con gái ông Lịch, ủy viên Ban Chấp hành Hội Phụ huynh học sinh, và Hộ, con trai của một ông gàn sắm vai kẻ bất phùng thời. Thầy giáo Huyện bực mình không chỉ vì hai học sinh cá biệt, mà còn do kết quả kì thi kiểm tra chất lượng giữa học kì của cả lớp chín, lẫn kết quả cuộc thi đọc diễn cảm văn học vừa rồi nữa, nhưng nổi cộm nhất tuần này vẫn là sự cố Hộ và Nhi!
Sáng nay, ở tiết sinh hoạt cuối tuần, Huyện cau mày nghe lớp trưởng nhận xét lớp với bản báo cáo trong tay. Số lượng tiết học B và C vẫn nhiều hơn số tiết được giáo viên bộ môn đánh giá là A trong sổ đầu bài! Lại sự cố nữa, cũng vẫn là Nhi với Hộ! Thầy giáo Huyện gọi Hộ lên đứng trước lớp. Vẻ mặt Hộ vẫn câng câng. Không kìm chế được nữa, Huyện run những ngón tay, gương mặt anh tái mét. Huyện vung tay tát Hộ bằng cái tát nẩy lửa. Cả lớp và Huyện thấy Hộ chúi nghiêng vào vách ván. Ngỡ sau cái tát, Hộ sẽ khóc hoặc sẽ hốt hoảng xin tha, nhưng Hộ lại đứng yên sau phút nảy đom đóm, choáng váng, suýt ngã dúi người. Hộ đỏ bầm mặt vẫn không hề có giọt nước mắt nào. Đưa ngón tay lẩy bẩy vào miệng, Hộ thấy có máu. Hộ nuốt bãi nước bọt mặn vị máu ấy vào bụng, nhếch môi cười!
Huyện rít qua kẽ răng:
- Hộ, mày … em còn là con người nữa không? Sao lại xô ngã Nhi xuống suối? – Huyện suýt “mày, tao” với học sinh –. Đấy, xem sách vở Nhi phơi ngoài sân kia kìa!
Thấy bản mặt Hộ lầm lì như đã chai đòn, Huyện nhớ đến ông Mộ, bố của Hộ, với hàng chục chiếc roi mây để nguyên gốc rễ dắt trên vách gỗ ở thôn B, những cú đấm, cú đá vô cớ và có cớ, cả tấm bảng viết mấy chữ kể tội thường treo vào cổ Hộ, rồi buộc chú bé mười sáu tuổi này chạy khắp thôn. Thầy giáo Huyện lóe lên một ý tưởng, bảo:
- Hộ, em hãy lấy một tờ giấy đôi.– Huyện gằn giọng –.
- Thưa thầy …– Hộ lắp bắp –.
- Kiểm điểm với em không còn tác dụng. Lần đầu tiên tôi tát em, cũng vô ích. Lấy giấy bút ngay!– Huyện quát –.
Hộ đi xuống lớp, mở bao ni lông đựng sách vở, giật một tờ giấy đôi từ giữa cuốn vở, lấy bút, lên lại bàn giáo viên.
- Em viết tên họ thật lớn vào giấy.– Huyện cắn chặt hai hàm răng cuối câu nói, kìm lại nỗi đau muốn trào lên –.
Hộ ngơ ngác. Huyện gắt:
- Nhanh lên!
Hộ viết xong, lặng lẽ nhìn tên họ mình trên giấy.
- Quỳ xuống!– Huyện lại bảo –.
Hộ nhìn xuống lớp. Cả lớp ngạc nhiên. Hộ chẳng hiểu vì sao thầy giáo lại như ba Hộ. Hộ chuẩn bị chạy khắp thôn A này? Hộ cảm thấy nhục. Ở B, Hộ quen rồi. Hộ tự bảo, nó sẽ nhục như ở B tại thôn A này sao! Quỳ rồi chạy ư?
- Quỳ xuống!
Hộ quỳ xuống. Hộ bỗng mỉm cười khi hiểu thầy giáo Huyện bảo nó phải đi bằng đầu gối khắp thôn A. Với đầu gối, làm sao nó đi khắp được, a ha!
- Trải trang giấy ra tay. Hãy khạc nhổ vào tên họ của em. Nghe chưa! Hãy sỉ nhục danh dự của chính em!
Hộ khạc nhổ như cái máy, đến khi không còn giọt nước bọt nào. Trên trang giấy trắng học trò, nước bọt hòa với máu chảy ra từ kẽ răng, nhòe nét mực tím ghi tên họ Hộ. Hộ vô cảm, thấy thế cũng nhẹ nhàng! Hộ phỉ nhổ tên họ mình đến khi trang giấy trắng đỏ lòm vết máu. Thầy giáo Huyện chưa bảo ngừng, Hộ vẫn nhổ khan đến khô cả cổ.
- Nhi, lên bảng!
Nhi là cô bé đã bước vào tuổi thanh niên, cao ráo, trắng trẻo, mái tóc dài đen mượt. Nhi riu ríu, sợ hãi bước lên.
- Đứng trước mặt Hộ!
Nhi sợ hãi hơn, nhìn chiếc áo trắng ngả màu cháo lòng của mình. Nhi ngỡ Hộ sẽ nhổ máu vào đấy. Cả lớp bàng hoàng, chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra. Hơn hai mươi em lớp chín chưa bao giờ thấy thầy Huyện phạt. Suốt năm học, khi giận lắm, thầy chỉ quát nạt, và cũng chỉ thế.
- Hộ! Hãy lạy Nhi một trăm lần!
Nhi đỏ bừng mặt. Hộ lạy như cái máy.
Huyện đã hả giận. Anh cảm thấy hối hận, biết mình đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng. Song Huyện phải tăng cường độ đau về tinh thần với Hộ. Thầy giáo Huyện nghiến răng để kìm chút trắc ẩn.
- Hãy liếm sạch vết máu, nước bọt trên giấy! Hãy liếm sạch tên họ của em! Liếm cho đến bao giờ không còn tên họ nữa, vì em không xứng đáng có tên họ. Em còn thua cả con chó! Con chó còn được có tên, còn em thì không xứng đáng.
Huyện nói xong, anh cảm thấy mình độc ác đến không ngờ. Không, với Hộ, phải thế. Anh phải đóng hết màn kịch độc ác này, để cứu vớt Hộ. Hộ đã lờn “thuốc”. Thật ra, anh cũng chẳng biết mình có đóng kịch hay không!
Huyện nhìn học sinh cá biệt xấu của mình lè lưỡi liếm đến rách cả giấy trong lúc Nhi còn tủi nhục bởi trăm cái lạy của Hộ, kẻ thường xuyên bắt nạt cô bé, nhưng lại tỏ tình với cô bé nữa! Nhi chẳng hiểu sao Hộ lại quái đản đến thế. Cả thân hình khá cao lớn, rắn chắc bỗng mềm xàu, run rẩy khi Hộ ấp úng bảo Hộ yêu Nhi, lại hung tợn, tàn bạo khi chửi rủa, xô ngã Nhi trên đường mòn, và cả mới đây, xuống suối, làm ướt hết áo quần, sách vở. Những lần đó, sau khi chửi rủa, xô ngã Nhi, Hộ chỉ đứng nhìn Nhi lấm láp bụi, ướt sũng nước, và Hộ cười hô hố!
Huyện giật mình nghe tiếng kẻng. Đã hết tiết sinh hoạt lớp. Huyện thất vọng, thấy Hộ vẫn chai lì. Thầy giáo Huyện bối rối thật sự. Không có tác dụng gì hết! Hộ không còn biết nhục nữa! Nhân tính của nó không còn! Nó chẳng có ý niệm về danh dự, nhân phẩm!
Huyện chán nản, bỗng thấy anh đã phạm tội nhục hình học sinh, có thể to chuyện.
- Các em!– Huyện nói với cả lớp –. Đây là lần đầu tiên và cuối cùng tôi bạt tai học trò, nhục hình học trò. Các em hãy nhớ giùm tôi. Với Hộ, đã hết “thuốc” chữa. Tôi tuyên bố đầu hàng. Ở các nước, đối tượng như Hộ không được phép học ở trường phổ thông. Ở nước ta, không được phép đuổi bất kì học sinh nào, vì đuổi học sinh là sẽ đẩy học sinh vào con đường ngu dốt, vào nhà tù, do học sinh bị thất học, và thất học là có nguy cơ phạm tội cao hơn. Nhưng ở nước ta lại không có trường giáo dục học sinh cá biệt xấu. Một “con sâu” đã “làm rầu nồi canh”. Lớp chín các em là “nồi canh” “rầu”, hỏng, vì Hộ. Suốt năm học, tôi đã dùng mọi biện pháp. Có điều, vô ích. Lần nữa, tôi tuyên bố đầu hàng. Còn Nhi, Nhi chỉ là nạn nhân của Hộ trong trường hợp này. Nhi học kém là việc khác.
Huyện đi ra khỏi lớp. Ka Kring thay Hoán làm chủ nhiệm lớp tám bên cạnh, mở tròn mắt nhìn Huyện bước xuống sân trường. Ka Kring biết hết những gì đã xảy ra. Huyện đã vi phạm nguyên lí giáo dục đến mức nghiêm trọng; về tính chất, nghiêm trọng không khác gì cô giáo Xinh tự làm nhục mình bằng quan hệ hủ hóa! Huyện đã chạm nặng đến nhân phẩm của cả Hộ lẫn Nhi.
Cả lớp chín sững sờ. Hai mươi mấy học sinh nhao nhao xỉ vả Hộ. Hộ đứng thẳng, nét mặt lạnh lẽo, nhếch mép cười, khóe miệng Hộ đã khô vết máu.
Ở lớp bảy, Nam cũng biết. Nam vội chạy qua lớp chín. Nam ôn tồn nói:
- Các em không được xỉ vả nhau. Hãy ra về trong trật tự như mọi hôm. Nhớ là không được kể chuyện tiết học vừa rồi cho bất kì một ai, kể cả cha mẹ, bạn bè, anh chị em.
Nam bảo năm em nhắc lại năm lần câu nói của anh vừa rồi. Anh lại hỏi:
- Các em nhớ chưa?
- Dạ nhớ …– Các em đáp –.
Ka Kring chưa cho học sinh lớp tám về, cô đứng nghe Nam.
- Đó là một “bài thuốc” cuối cùng của thầy giáo Huyện. Nếu Hộ không sửa mình, chỉ còn cách trình báo với công an. Các em về!
Ka Kring cũng vào lớp mình dặn dò như vậy.
Cả Nam lẫn Ka Kring biết họ đã sai lầm bởi sai lầm của Huyện. Là nhà giáo, đem công an ra để răn đe học sinh, thật đáng xấu hổ! Hai người bước song song lên nhà tập thể.
- Em không ngờ anh Huyện lại kinh khủng thế!– Ka Kring khẽ nói –. Sao anh Huyện nghĩ ra cách phạt kinh khiếp thế!?
- Kinh khủng thật. Ở bên lớp bảy, mình cũng nghe được tiếng gầm của Huyện. Không ai giáo dục như vậy, nếu là nhà giáo.
- Có lẽ anh không nghe được lời anh Huyện sau tiếng kẻng. Những lời ấy có lí lắm. Nhưng làm sao cứu được một con người là Hộ!– Ka Kring lại nói, và kể cho Nam nghe –.
Gần đến nhà tập thể, hai người đứng lại giữa nắng. Nam nghe, nhìn vào đáy mắt nâu trong vắt của cô giáo lai xinh đẹp. Anh đọc thấy ở đó một nỗi đau.
- Ừ, nước mình chưa có trường phục hồi nhân phẩm cho dạng học sinh cá biệt xấu như Hộ thật.– Nam buồn rầu nói –.
Họ còn chưa biết dạng tình yêu tuổi mới lớn rất kì quái của Hộ. Một trái tim từ thuở thơ ấu đến lúc mới bước vào tuổi thanh niên, bị đặt trên đe dưới búa vì lỗi lầm và không lỗi lầm, đã méo mó, bầm dập, dị hợm! Đến khi trái tim ấy tới tuổi chớm yêu, với tình yêu mơ hồ trong tình bạn, thứ tình cảm ấy cũng trở nên quái dị. Trái tim bản năng không được thắp sáng bằng lẽ sống hướng thượng, ấy là quyết tâm học tập, rèn luyện, tu dưỡng để xây dựng sự nghiệp riêng trong sự nghiệp chung của xã hội! Đúng hơn, ánh sáng ấy không sáng nổi bởi phương thức giáo dục bằng cách huấn nhục của ông bố tên Mộ.
36
Ngay sau tiết chủ nhiệm của buổi sáng thứ bảy ấy, Huyện lên gặp anh Giảng, trình bày hết mọi việc xảy ra. Anh Giảng cũng bàng hoàng lắng nghe. Các giáo viên hầu như vì thế nên đã biết chuyện.
Ngay tối hôm ấy, anh Giảng dặn mọi người yên lặng về việc này, nhất là đừng để Phòng Giáo dục và Chi bộ, Ủy ban xã Bảo Nghĩa hay sự vụ, trước khi có biện pháp giải quyết.
Sau mấy hôm suy nghĩ, nhóm giáo viên trẻ cấp hai cùng anh Giảng, anh Quỳnh qua B, để gặp bố của Hộ lẫn gia đình Nhi, kết hợp với việc thanh tra hoạt động xóa nạn mù chữ ở các lớp bổ túc văn hóa ban đêm tại các xóm cùng thôn. Chiều thứ tư đi, sáng thứ năm về.
Chiều thứ hai này, Ban Giám hiệu, Ban Chấp hành Công đoàn trường, Ban Chấp hành Chi đoàn giáo viên họp với các giáo viên bộ môn giảng dạy lớp chín. Ka Kring, Nghệ không dạy lớp chín cũng được mời dự. Buổi họp được tiến hành ở chái đầu hồi căn nhà nam.
- Tôi và một số đồng chí đã qua gặp ông Mộ. Đó là một dạng người khó hiểu. Ông Mộ chủ trương huấn nhục cho con trai mình để tập đức tính vâng lời, chấp hành vô điều kiện mọi mệnh lệnh, sai bảo. Đó là biện pháp của quân đội ngụy trong các trung tâm huấn luyện tân binh. Tân binh ngụy phải chấp hành mọi mệnh lệnh cho dù phi lí nhất, như bọn chỉ huy bảo ăn cả nạm ớt cũng phải ăn, bảo nằm phơi nắng cũng phải nằm, để chúng bảo nhảy vào lửa, vào cái chết cũng nhảy … Quân đội ngụy man rợ ở điểm này, nhưng chỉ huấn nhục trong một tuần lễ. Ông Mộ lại kéo dài từ nhiều năm nay. Hộ chỉ là nạn nhân. Hộ đã méo mó về nhân cách, nhân tính. Ông Mộ còn sỉ nhục công khai, thậm chí bắt một thanh niên mười sáu tuổi cởi áo quần, đeo bảng kể tội chạy khắp xóm, khắp thôn. Ông ấy hơn cả Mao nữa! Tôi không hiểu sao Ban An ninh xã chưa bắt tù con người độc ác ấy. Chỉ có một cách cứu Hộ như vậy … Vấn đề hiện nay là tại sao đồng chí Huyện lại nhục hình Hộ?– Anh Giảng nhìn Huyện –. Đồng chí hãy trình bày rõ. Các đồng chí khác cho ý kiến đóng góp.
Huyện gầy đi rõ rệt sau tám ngày đêm trăn trở. Anh nói với giọng hối hận:
- Tôi chưa hề đánh học sinh lần nào, cũng chưa dùng một từ nặng nề có tính lăng mạ học sinh … Tôi biết tôn trọng nhân phẩm các em, giáo dục các em lòng tự trọng, với phương châm của Bộ Giáo dục và các đại học sư phạm, “tôn trọng kết hợp với yêu cầu cao”, “biến quá trình được giáo dục của học sinh thành quá trình các em tự giáo dục”. Tôi có học kĩ giáo dục học của cách mạng. Nhưng tôi nghĩ đến cái tát và lần Ma-ka-ren-cô (Makarenco) rút súng lục dọa bắn một học viên trường thiếu niên phạm pháp. Lần ấy, nhà giáo dục vĩ đại này bất ngờ, làm sai nguyên tắc của chính ông ta, nhưng lạ thay, lại thành công. Tát tai người khác, dẫu học sinh, cũng vi phạm nhân phẩm và tự do thân thể. Rút súng là giết người chứ không phải dạy người, cải tạo người. Tuy răn đe, song răn đe bằng súng lục, là hành vi của kẻ “yên hùng”, chứ không phải của nhà giáo. Tuy nhiên, như đã nói, lần sai lầm nghiêm trọng ấy của Ma-ka-ren-cô lại là lần thành công lớn. Học viên ấy được thuần hóa ngay, y trở thành một học viên tốt đến kinh ngạc. Tôi nghĩ, lấy “yêng hùng” trị “yêng hùng”, “dĩ độc trị độc”. Tôi đã độc ác một cách đau lòng để trị bệnh độc ác ở Hộ. Hộ đã chai lì, méo mó nhân cách mất rồi. Tôi đang chờ kết quả. Cái sai lầm của tôi là chưa thông qua Ban Giám hiệu và các giáo viên bộ môn về cách xử phạt sai nguyên tắc này trước khi thực thi. Đó là cái sai của tôi. Chưa “hội chẩn”, đã cho “phương thuốc độc bảng A” với “liều lượng” quá mạnh.– Giọng của Huyện run lên, anh ngừng bặt –.
Lộc Biếc đưa tay xin phát biểu. Cô hơi bối rối một lúc.
- Tôi phản đối đồng chí Huyện.– Cô nói –. Sỉ nhục bằng cái tát là quá mức, càng không thể sỉ nhục bằng cách bắt học sinh quỳ, lạy, nhổ nước bọt và máu vào tên họ. Quá phi nhân!– Cô ngập ngừng –. Tôi đau lòng dùng hai chữ “phi nhân” ở đây. Chúng ta đang chống chủ nghĩa Mao. Mao đã vấy máu và bùn vào chủ nghĩa Mác. Chúng ta là nhà giáo Việt Nam, không thể như Lê Long Đỉnh, Lê Long Việt được. Phải lấy sự tôn trọng nhân phẩm học sinh làm đầu. Phải “lấy chí nhân mà thay cường bạo”.
Huyện lắc đầu, im lặng. Mười mấy nhà giáo cũng im lặng suy nghĩ. Huyện ấp úng:
- Tôi hiểu tất cả các nguyên lí, phương châm giáo dục. Dạy người chứ không phải dạy thú. Dạy thú còn phải lấy chữ “nhân” làm đầu. Nhưng tôi chỉ thử nghiệm, theo Ma-ka-ren-cô.
Khoai nói sau khi được phép phát biểu, giọng từ tốn:
- Tâm lí con người không phải là cỗ máy. Các cỗ máy cùng loại, cùng kiểu đều giống nhau. Mặc dù các nhà tâm lí học đã khái quát được quy luật tâm lí chung nhất của loài người, nhưng xét vào đối tượng cụ thể, tâm lí con người không ai giống ai, lại rất bí ẩn. Người ta vẫn không hiểu vì sao Ma-ka-ren-cô lại thành công ở trường hợp đó! Liệu Hộ với “liều thuốc” của đồng chí Huyện có trở thành tội phạm tày trời hay không, làm sao lường được! Tôi có dạy toán lớp chín, tôi thấy em ấy không phải là học sinh không thể học được như Nhi. Hộ chỉ bị bệnh nhân cách do ông bố. Tôi nghĩ “phương thuốc” đã có, như đồng chí Giảng đã nói. Vô cùng đơn giản, ấy là bắt tù, cải tạo ông Mộ, hoặc cách li ông Mộ khỏi Hộ. Với yêu thương, trân trọng, Hộ sẽ khỏi căn bệnh méo mó nhân cách. Đó là biện pháp an toàn nhất, có tiên lượng tốt thấy rõ trên lí luận. Tôi tin trên thực tiễn, biện pháp ấy hữu hiệu như đã thấy qua lí luận.
Anh Giảng nói:
- Vậy thì phải đề xuất với Ban An ninh xã và Công an huyện Công, sau khi xin ý kiến Phòng Giáo dục. Còn về cái tát và hành vi rút súng, đúng là Ma-ka-ren-cô thành công một cách khó hiểu.
- Có thể học viên ấy thích kiểu “cao bồi” thoáng hiện ở Ma-ka-ren-cô!– Nam nói, hình như anh lập phản đề –.
Mọi người cười ầm. Không khí nghiêm túc bỗng nhộn hẳn.
- Tôi nói không phải để khôi hài.– Nam lại nói –. Phải chăng học viên ấy bị thu phục bởi nét “cao bồi” của nhà giáo dục vĩ đại? Bị thu phục rồi, nó trung thành tới chết, và nhà giáo dục đã có được điều kiện thuận lợi cơ bản, đầu tiên để cải huấn nó? Tâm lí con người cụ thể là một cõi bí ẩn, không ai giống ai, như đồng chí Khoai nói. Ma-ka-ren-cô tình cờ chạm được cái chốt, ngẫu nhiên nhặt được chìa khóa của tâm lí học viên ấy. Và phép mầu đã diễn ra, diễn ra với yêu thương, trân trọng, chứ không phải mãi mãi trước họng súng. Không ai kè kè họng súng sau gáy học viên mãi được, như thế chỉ phản tác dụng … Khi tốt, nó sẽ tốt cả lúc một mình, cả trong tư tưởng, tâm hồn. Đấy mới là mục đích của sự giáo dục. Trân trọng, tôn trọng, yêu thương và yêu cầu cao sẽ chiến thắng, sẽ vững bền … Con người chai lì, không biết xấu hổ, không biết nhục nữa, sẽ độc ác thế nào, như Hộ đối với Nhi, chúng ta đã biết … Rồi chúng ta còn biết những gì nữa với sự làm nhục, huấn nhục dài ngày, dài năm của con người đối với con ngươi, như ông Mộ đối với con trai của ông ấy!– Nam ngừng lại –.
Ka Kring đưa tay xin phát biểu. Nam ra hiệu cho anh được trình bày ý kiến còn dở dang:
- Tuy nói vậy, tôi vẫn thấy ở khía cạnh khác nữa. Đó là, học viên ấy vốn bất trị, nhưng y chợt bị chấn động mạnh, bởi y thấy một nhà giáo trước giờ vẫn nhẫn nại yêu thương, nhẫn nại tôn trọng, bỗng nổi giận. Học viên ấy bị xúc động tận gan ruột trước sự nổi giận của yêu thương, sự nổi giận của lòng tôn trọng con người. Học viên ấy đã tâm phục từ lâu, mà cái tát và hành vi rút súng của nhà giáo, chỉ là cái cớ để sự tâm phục chuyển hóa thành một chất khác. Do đó, như tôi và các bạn ở đây suốt tuần lễ nay suy nghĩ, góp ý với đồng chí Huyện, rằng căn bản vẫn là “lấy chính nghĩa mà thắng hung tàn, đem chí nhân mà thay cường bạo”, là rất nhân và thật nghĩa, là rất yêu thương và thật tôn trọng con người. Nghĩa còn là lẽ phải, là chính nghĩa của mục tiêu giáo dục …
Ka Kring rạng rỡ hẳn vì thấy Nam hợp ý mình:
- Vấn đề là giải pháp. Bây giờ giải quyết thế nào để đồng chí Huyện và cả em Hộ không lâm vào cảnh khó xử.
- Cả em Nhi nữa.– Hoán nói –.
Anh Giảng suy nghĩ với vẻ mặt lo âu. Anh Quỳnh đưa tay:
- Tôi có ý kiến. Về tính chất, vụ này rất nghiêm trọng, có thể liên quan đến tòa án. Một cuộc phạm luật dây chuyền, từ ông Mộ đến Hộ rồi Nhi, và khốn thay, lại đến đồng chí Huyện …– Giọng anh Quỳnh dạo này mệt mỏi hẳn –. Cho nên, đồng chí Huyện nên có cách nào đó cho ổn.
- Động cơ đồng chí Huyện vẫn là giáo dục, tuy biện pháp đã vi phạm nhân quyền, nhân phẩm, vận dụng Ma-ka-ren-cô sai lệch.– Lụa nói –.
Bỗng dưng, anh Quỳnh thở phào kín đáo. Đồi Hương vẫn cắm cúi ghi chép biên bản. Có lẽ, hơn ai hết, Lộc Biếc, Khoai, Nam và Ka Kring rất lo ngại cho Huyện. Họ đã bàn với nhau suốt tuần nay, nhưng trong cuộc họp, có nhiều khía cạnh mới nảy sinh. Huyện ngồi yên, như muốn gượng lại sự suy sụp tinh thần. Gương mặt anh hốc hác, mắt thâm quầng vì mất ngủ.
- Đồng chí Huyện có năng lực chuyên môn tốt, có điều công tác chủ nhiệm hơi lơi lỏng … Lớp chín lại là lớp cuối cấp. Tôi đã phân vân từ giữa học kì một … Chẳng lẽ cứ thay đổi chủ nhiệm hoài …– Anh Giảng ngập ngừng –. Thôi, các đồng chí nghỉ giải lao mười phút, suy nghĩ thêm, sau đó chúng ta họp lại.
Trong lúc những người khác đi hút thuốc lào, ra ngắm chuồng thỏ, nhìn các chú ong bay đi, bay về nơi các thùng gỗ thông treo vào vách gỗ đầu hồi, phía trên tấm bảng ghi lịch công tác, thông báo, hoặc ngắm trời, ngó đất, những người bạn trẻ lại bàn bạc với nhau.
Trở lại cuộc họp, anh Giảng đề nghị mọi người đề xuất cách giải quyết cho ổn thỏa.
- Tôi xin phát biểu trước.– Huyện hơi mất bình tĩnh –. Nói thật, tôi rất đau lòng cho chính tôi. Một giáo viên như thế thật đáng khiển trách nặng, như bị sa thải khỏi ngành, thậm chí, bị truy tố trước pháp luật. Song tôi chả hiểu vì sao lại chợt phạm khuyết điểm ấy. Có thể do tôi bực bội đã lâu về Hộ, do bức xúc vì phong trào thi đua của lớp chín quá kém … Tôi chưa hết mình …, thiếu kinh nghiệm, và cái chính là vận dụng kinh nghiệm Ma-ka-ren-cô một cách máy móc, ngu dốt, không “hội chẩn” với nhóm giáo viên chủ nhiệm, bộ môn … Bản thân Hộ là một trường hợp khó … Tôi không ngờ tôi lại phi nhân đến vậy! Tôi rất nhục nhã cho chính tôi.– Huyện cúi đầu suy nghĩ –. Tôi nghĩ, không có biện pháp kỉ luật nào là xứng với lỗi của tôi. Tuy nhiên, trước mắt, tôi xin viết kiểm điểm, xin lỗi em Hộ và em Nhi trước lớp chín, xin lỗi cả lớp chín và các đồng chí nữa, như con người trước con người. Không phải tôi hạ mình, sợ bị sa thải, tòa án xét xử, mà trên tinh thần tôn trọng Con Người, mặc dù là học sinh … Mọi sự tiếp theo, tôi phải cam chịu trách nhiệm, dẫu phải đi tù.
Nghệ rươm rướm nước mắt. Anh vốn là người ít nói, giờ càng không nói gì. Những gương mặt dự họp bỗng cùng một cảm xúc với nhiều nét biểu lộ khác nhau.
- Phải bằng mọi cách giải minh vụ này. Nguyên nhân sâu xa là ông Mộ.– Khoai vẫn ngầm giữ ý kiến phải truy tố ông Mộ, cách li ông Mộ ra khỏi Hộ, hoặc tìm điều kiện cho Hộ thoát li –.
- Tôi đồng ý như vậy. Xin lỗi học sinh không phải là nhục nhã. Hãy xem đó là biện pháp có ý nghĩa giáo dục, nhằm thể hiện tinh thần bình đẳng về nhân quyền, giữa con người với con người. Xin lỗi học sinh để giáo dục học sinh là tốt, sẽ có tác dụng phục hồi ý niệm nhân phẩm cho Hộ, cho Nhi, và giáo dục cả lớp chín, lẫn lớp tám, lớp bảy nữa …– Nam nói –.
- Chúng ta không ngụy biện để bào chữa cho đồng chí Huyện. Nhưng bản chất sự vụ đã rõ. Tôi đồng ý với đồng chí Huyện, đồng thời, sẵn sàng gánh vác trách nhiệm chủ nhiệm cho đồng chí ấy. Tôi vốn là phó chủ nhiệm lớp chín, dạy ngữ văn lớp đó.– Lộc Biếc nói –. Đồng chí Khoai cũng giúp cho một tay.
Ka Kring đưa tay xin phát biểu. Anh Giảng gật đầu mời cô.
- Tôi cũng không bao che cho đồng chí Huyện. Chúng ta đã quan tâm đến đồng nghiệp, cần lưu tâm hơn em Hộ và em Nhi. Hậu quả nào sẽ xảy ra cho hai em học sinh của chúng ta, đó là điều cần lưu tâm trước nhất. Tôi cũng thấy, xin lỗi hai em đó, cả lớp chín nữa, là cấp bách. Giáo viên xin lỗi học sinh trên tinh thần tôn trọng con người, không phải là hạ mình, mà tự nâng mình lên một tầm cao nhân bản. “Phương thuốc” này hữu hiệu nhất, với Hộ, Nhi cùng các em khác. Không nên chần chừ việc xin lỗi.
Nắng chiều đã dần tắt. Những con ong vẫn còn cần mẫn với các chuyến bay đi, bay về. Anh Giảng đợi các ý kiến khác, trong khi Đồi Hương đã mỏi tay với biên bản, đang duỗi các ngón bên cây bút, cạnh cuốn sổ biên bản to tướng, bọc bìa đen.
- Tôi muốn ém vụ này, đừng để đến tai chính quyền, Chi bộ và Phòng Giáo dục, Công an huyện. Nhưng một học sinh biết, là sẽ có nguy cơ! Bản án cho đồng chí Huyện sẽ còn treo lơ lửng đâu đó đến cả năm, bảy chục năm sau! Nhìn tầm xa sẽ thấy vậy. Vả lại, nhà giáo phải trung thực. Tôi cũng đồng ý với các đề xuất: kiểm điểm, xin lỗi học sinh, cách chức chủ nhiệm, và cả thông báo cho Ban An ninh xã về trường hợp ông Mộ cùng các giải minh về sự vụ. Tôi đề nghị thêm, đồng chí Huyện phải giữ nhiệm vụ phụ tá cho cô Xinh về thư viện. Các đồng chí cứ suy nghĩ thêm. Kì họp Hội đồng tháng này sẽ tiến hành sớm vào tối mai. Chúng ta lại bàn sự kiện này rồi lấy biểu quyết. Nếu không ai có ý kiến gì nữa, chúng ta vào chái sau ăn tối. Tạm nghỉ. Cô Đồi Hương vui lòng đọc lại biên bản.
Ở cửa vào phía hông chái sau, Nam thấy chú mèo đực ngồi dưới đất chăm chú nhìn đàn ong bay đi, bay về. Chú mèo liếm mép, đảo mắt liên tục. Nam không cười được nữa với hình ảnh dễ thương, ngộ nghĩnh ấy, anh đang lắng nghe.
Lộc Biếc, Khoai, Ka Kring và Nam ngồi nán với Huyện, san sẻ niềm hối hận, nỗi âu lo của anh. Thấy dưới hộc bàn mấy chiếc đũa Lụa dùng để tập đánh trống ếch cho đội trống Đội Thiếu niên Tiền phong, bất giác Huyện rút ra. Năm chiếc đũa tình cờ trên bàn tay anh. Huyện bẻ gãy một chiếc. Bỗng dưng, Huyện chảy ràn nước mắt. Hai dòng nước mắt chảy ròng trên gương mặt bất động đang chói ửng màu tía trong ánh nắng đỏ ối hắt vào. Rút khăn tay, anh lau nước mắt, có lẽ chỉ là nước mắt tủi nhục, hối hận vì “màn kịch” phi nhân của chính mình. Năm người im lặng xót xa.
Họ vào bàn ăn tập thể. Anh Quỳnh đang so đũa. Trên bàn, vẫn bo bo “bọc nhựa” xay nhỏ, canh rau và cá khô kho.
Sau cuộc họp Hội đồng phân hiệu bất thường tối thứ ba, ngay sáng thứ tư, Huyện vào lớp chín với Ban Giám hiệu, bí thư Chi đoàn, thư kí Công đoàn, cùng thư kí Hội đồng, nhờ sự đảo tiết, lấy tiết lí của Hoán đầu buổi làm tiết sinh hoạt lớp, còn tiết sinh hoạt cuối buổi sáng thứ bảy sắp đến sẽ được Hoán dạy bù. Các giáo viên có chức vụ này đã được bố trí người dạy thay.
Huyện đã xin lỗi Hộ và Nhi, hai học sinh cá biệt chậm tiến của anh, xin lỗi cả hai mươi mấy học sinh lớp chín, một cách thành khẩn, cảm động. Anh Giảng nói ý nghĩa giáo dục của sự xin lỗi với các em, rồi cùng Huyện bắt tay em Hộ, em Nhi. Hộ lẫn Nhi trào nước mắt. Lần đầu tiên Hộ khóc. Hộ đã biết khóc!
Cả lớp chín ngồi chết sững. Các em chưa bao giờ thấy thầy giáo, lại là thầy chủ nhiệm, thầy hiệu trưởng, xin lỗi, bắt tay học sinh với ý nghĩa rất nhân quyền như thế. Một vài em ấp úng, khóc khi phát biểu. Nhiều em cúi mặt xuống bàn khóc rung cả vai, bật thành tiếng nấc vì xúc động.
Hộ đã biết khóc!
Huyện cảm thấy lúc này, công an có đến còng tay anh, anh vẫn mãn nguyện, bởi Hộ đã biết khóc!
37
Buổi chiều, nắng mùa này đang bắt đầu gay gắt. Bên sân nhà anh Ruộng, bóng râm những cây mít bắt đầu có trái bói, những cây trứng gà đã trổ bông trắng rụng đầy làm rợp mát vài khoảng đất được nện chặt, bằng phẳng. Giữa sân, nắng vẫn chói chang.
Anh Ruộng đọc lại lí lịch, đơn xin kết nạp vào Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của một số giáo viên, nhân viên, trong đó có Hạ, Hoán, K’Đa, Nam, Khoai … theo sự gợi ý của chính anh. Trong thực tiễn sinh hoạt, công tác, họ thật tốt, nhưng về nguyên tắc, thủ tục, anh Ruộng e rằng họ khó được suôn sẻ. Anh Ruộng trầm ngâm suy nghĩ về họ, về chuyện đời rắc rối.
Chị Huân vác xà bất từ rẫy về, sau lưng chị là một gùi mây nặng khoai sắn. Anh Ruộng giật thót mình khi thấy bóng vợ. Dạo này, chị Huân cứ dấm dẳn mãi với anh. Không biết ngoài nguyên nhân là cái bàn thờ gia tiên, còn có nguyên nhân gì khác. Anh Ruộng vẫn hi vọng, nguyên nhân khác nếu có cũng ở ngoài gia đình này. Có thể, do trong công tác Hội Phụ nữ, chi Huân cau có chăng. Có thể, trên nương rẫy, chị Huân va chạm với ai cũng vì bờ đất, trái bí, củ khoai gì đó chăng. Anh Ruộng vốn yếu về sức khoẻ, quen nhịn vợ. Song nhịn luôn cả sự đả phá một cách máy móc về việc thắp hương, thờ cúng gia tiên theo truyền thống thì không. Chính nhờ sự đả phá của chị Huân về vàng mã … (chỉ là mấy tờ giấy tiền, in các xâu tiền cổ, mấy tờ vàng bạc, in các thỏi vàng, thỏi bạc, với mấy xấp áo binh được cắt theo kiểu tượng trưng, cả tấm bản đồ thế giới – nhân loại có hình Tổ quốc – dân tộc, hôm trước Tết anh đã mua về, ngồi cặm cụi tô màu, rồi dán lên vách cuối bàn thờ). Phải rồi, chính nhờ sự đả phá của vợ, anh Ruộng mới có dịp ngẫm nghĩ sâu hơn.
Anh Ruộng nhớ hôm “liên hoan” ở nhà bà Tặng trong học kì một. Hôm đó, anh hơi ngán tiếng dao dằn dỗi bập vào thớt của bà trực tính ấy. Hôm đó, Nam đã gỡ rối cho cả bàn. Anh Ruộng thấy Nam chí lí, tuy chí lí một cách bất chợt để đối phó. Nhưng đâu chỉ hôm đó, mấy chục năm nay, nhất là ba năm gần đây, sau Ngày Giải phóng – ừ, trọn bốn năm rồi chứ, sắp kỉ niệm ngày trọng đại ấy rồi –, anh Ruộng nghĩ, chuyện cái bàn thờ, chùa chiền, đình làng, nhà thờ Chúa, thánh thất các thứ, cứ rắc rối mãi!
Chị Huân bước vào nhà, lại gần bàn anh Ruộng đang tì tay suy nghĩ, rót nước, uống ực một hơi. Anh Ruộng giật thót người, im lặng.
- Tôi viết đơn li dị rồi đa nghe! Ông không vứt mấy cái đồ vàng mã đó, ai đi đường nấy.– Chị Huân ỷ mình tuy đàn bà nhưng là trụ cột gia đình, người nuôi sống cả nhà, vô hình trung thành gia trưởng, nên giọng chị rất quyền uy –.
- Gì mà li dị! Cái bà này! Ba đứa con tuổi ăn, tuổi học, rồi ra sao! Đụng một tí, doạ, hai tí, doạ. Thôi, rửa ráy cho mát mẻ chút đi. Nóng quá trời nóng.– Anh Ruộng đấu dịu –.
- Không nóng, không lạnh gì hết á! Theo Đảng bao năm, giờ “theo đuôi” quần chúng. Cơ hội để theo đóm ăn tàn bọn “phục quốc” hả ông? Rồi họp Chi bộ, tôi biết ăn nói làm sao!– Chị Huân rút khăn vắt vai lau miệng –.
- Bà đảng viên, bộ tôi không đảng viên sao! Chính hồi chống Mỹ, tôi giới thiệu bà vào Đảng chứ ai. Còn cái vụ vàng mã này là cái hiếu. Cái hiếu phải cụ thể như vậy, để dạy sắp nhỏ. Bà hiểu rồi mà. Tôi là thương binh, sức khoẻ yếu, nay còn vầy, chứ thêm dăm tuổi nữa, con cái nó hiếu với tôi chỉ bằng nước miếng thôi, thì còn ra cái quái gì!
- Tôi cũng nói với ông rồi: còn có cái con Huân này nè. Ông chết trước tôi chớ bộ. Ông đừng nuôi con theo cái kiểu đầu cơ, đầu tư sinh lợi gì đó. Nuôi con để hòng nó nuôi lại là dở rồi …– Bỗng chị Huân chùng giọng vì thấy việc con cái phụng dưỡng tuổi già cha mẹ, ông bà cũng phải! –. Còn, còn …
- Còn gì cứ nói luôn đi. Tôi thuộc bài của bà rồi, nhưng vẫn để bà nói cho hả. Nói đi bà!
- Thôi, tôi không nói nữa. Chi bộ sẽ kiểm điểm là mê tín, phí phạm giấy má trong khi học trò thiếu giấy để học. Cứ thờ cúng riết rồi duy tâm ráo trọi!
- Tôi đốt vàng mã bao giờ! Cái bà này! Đặt trên bàn thờ cho nó đẹp, lại là giáo cụ trực quan để dạy chữ hiếu cho sắp nhỏ. Đó cũng là bàn thờ Giống nòi, Tổ quốc, Nhân loại chứ bộ. Bộ bà không thấy hình bản đồ chữ S nước mình tôi tô đỏ hả bà?– Anh Ruộng bực mình, nhưng cố kìm chế giọng nói để chị Huân khỏi nổi cơn tam bành –. Thôi, nói lui, nói tới mấy tháng rồi cũng chừng đó, chán phèo. Đó, tôi cắt giấy thủ công hai chữ VO THAN dán ở hai cái cột hai bên rồi.
Chị Huân nói với cái lườm:
- Ông chửi tôi đó mà! Sao không thêm dấu?
- “Vô thần” hay “võ thần”, “vợ than” hay “vợ thân” gì gì cũng được, tuỳ người mà giải thích.– Anh Ruộng bỗng cười hích hích –. Bà chưa chịu sao? Thờ cúng một cách vô thần, duy vật chớ còn gì nữa … Thôi, thôi, tôi đi đây có việc chút đã nghen! Nói hoài, nói hoài, quá chán!
Anh Ruộng cố nhịn, và cũng khá giỏi nhịn. Anh đem mớ đơn, lí lịch cất vào cái tủ gỗ tạp luốc nhuốc xỉn màu. Đút chìa khoá vào túi, nhưng sợ mất dọc đường, anh lại móc vào cái đinh trên cột gỗ, chỗ quá đầu người.
Bước ra cửa, anh càu nhàu như một đứa trẻ:
- Li dị! Li dị! Mở miệng là đòi li dị!
Anh cắm cúi bước nhanh ra đầu ngõ, rồi mới thong thả bước. Có điều anh cũng chẳng biết đi đâu vào giờ này! Sờ tay lên đầu, anh sực nhớ là đã quên đội mũ. Nắng quái chiều hôm còn gay gắt trên những mái tôn, trên đường đất ba dan đỏ. Anh chợt nhớ, lẩm bẩm, đúng như hệ luận từ một câu ngạn ngữ, ai làm chủ kinh tế, cũng làm chủ gia đình! Anh Ruộng ngơ ngác chẳng biết đi đâu! Lớ ngớ một lúc, anh tự an ủi, vợ anh chỉ làm tàng thế thôi, chứ bà ấy thương anh lắm. Anh Ruộng tự nhủ thế, rồi lại bước vô nhà. Sực nhớ, anh lại bước ra, đi tìm ba đứa nhỏ đang mải chơi bên hàng xóm. Anh Ruộng bước, lạnh lưng với ảo giác về cái dao sắc thái thịt huơ lên ở đâu đó đằng sau anh. Dũng sĩ thế nào được với kẻ chém lén! Và chết lãng xẹt! Anh Ruộng hiểu anh linh hoạt thế là thông minh, chí lí. Anh đã đến ngõ hàng xóm. Bỗng anh kiên quyết hẳn. Không. Thờ cúng phải thành tâm! Hiếu nghĩa mà không thành tâm như những điều tâm niệm thì còn ra thể thống gì! Tất nhiên thành tâm suy nghiệm, tâm niệm, trước tổ tiên ông bà trong gia tộc đã khuất cũng như trước lịch sử dân tộc, lịch sử nhân loại (vốn có thăng trầm, vinh nhục), không phải là duy tâm!
Thằng út của anh reo lên, gọi anh bằng biệt danh mới:
- Ba VỠ THẬN đây rồi! BA đổi tên PHẢI rồi hở ba?
- Không đùa!– Anh Ruộng gắt khiến thằng bé cười oà –.
Anh Ruộng mắng con nhưng đầu óc lại nghĩ cách đối phó với vợ. Anh lẩm bẩm: “vô thần, vãn thần” là “võ thần, văn thần”, hay … thế này cũng được, “vợ than van thân”, cho bà ấy vui!
38
Hồi chiều, Ban Thiết bị của Phòng Giáo dục huyện Công hợp đồng với Hợp tác xã Xe ba bánh chở vào mấy chục bộ bàn liền ghế do Quỹ Bảo trợ thiếu nhi (UNICEF.) của Liên hiệp quốc tặng. Trên sân nhà tập thể giáo viên, bàn ghế học sinh xếp như một lớp học ngoài trời. Một số khác được đặt trong chái đầu hồi.
Đêm nay, trăng sáng ngời. Trăng vẫn bát ngát, sáng vằng vặc, tuy không lạnh đến buốt như hồi mùa đông khô ráo, hồi mùa xuân đẫm hương hoa cà phê, hoa chè nữa. Trăng cao nguyên tuyệt vời mặc dù gần đến cao điểm mùa khô. Trăng tuyệt vời, đúng. Khoai muốn ngàn lần, mãi mãi được ngợi ca trăng cao nguyên.
Lúc ngồi với các bạn, tì tay lên mặt bàn còn thơm thơm mùi vẹc ni, âm ẩm sương đêm, Khoai cứ ngẩng mặt nhìn trăng. Anh nhớ Lí Bạch ôm trăng chết đuối trên sông.
ngẩng đầu nhìn trăng sáng
cúi đầu nhớ quê xưa! (42)
Khoai cũng nhớ làng Thuận Xá ngoài Quảng Trị xa lắc. Tuy nhiên, thật với lòng mình, Khoai nhớ nhiều nhất, nhớ say nhất vẫn là người anh yêu dấu thầm lặng đang gần gũi anh. Lộc Biếc xinh đẹp một cách trí tuệ, ngồi trước mặt anh, bên cạnh Huyện. Dưới ánh trăng, cô gái nào cũng trữ tình, duyên dáng hẳn. Giá như đừng có mặt trời với ánh sáng thô bạo, tàn nhẫn, cõi người ta này sẽ bớt đi sự bất công của trời đất – Khoai từng nghĩ vậy. Nhưng mặc nắng chói chang, Lộc Biếc vẫn đẹp. Dưới trăng, cô ấy còn đẹp biết chừng nào! Đêm nay, các bạn ngắm trăng, chuyện trò gẫu với nhau, riêng Khoai bỗng trầm ngâm thương nhớ một người anh chỉ với tay là chạm đến. Và Khoai buồn, ngồi lặng lẽ.
Một lát, anh bước vào nhà, sau khi bấm khẽ Hoán, Cam Ly, Đồi Hương. Khoai đành cam lòng dành trọn cho Lộc Biếc và Huyện đêm trăng với các bộ bàn ghế làm lạ hẳn khung cảnh quen thuộc này!
Ở dãy bàn ghế bên kia, nhóm của Ka Kring và Nam. Họ đang hát hò, ngâm thơ. Một lúc, Suối Vui, Trăng Thu, Lá Xuân, Đoá Xuân cũng rút lui một cách tế nhị. Cả bốn cô giáo này không vào nhà tập thể. Họ rủ nhau đến nhà một phụ huynh khá thân với các cô.
Khoai, Cam Ly, Đồi Hương ở hai gian nhà hai bên văn phòng nhìn ra sân trăng, bỗng mỗi người đau một nỗi cô đơn riêng. Hai đôi bạn đang chuyện trò giữa sân trăng, như dưới ánh đèn sáng trắng trong một giảng đường đã vãn, các bạn bè sinh viên đã ra về hết, chỉ còn lại họ. Họ hơi ngượng khi thấy chỉ còn lại hai đôi nam nữ. Cả bốn người đều hiểu ý các bạn của mình. Lộc Biếc định vào nhà luôn, song ánh trăng huyền ảo trữ tình kia như kìm giữ cô lại bên người bạn trai cô đã cảm mến. Dạo này, Huyện cứ mãi tự giày vò về vụ “phi nhân” với một niềm ân hận không nguôi, khiến anh gầy đi, lơ láo hẳn, y hệt kẻ mất hồn. Lộc Biếc thấy thương thương thế nào ấy. Cô hơi kinh sợ lúc hình dung hình phạt độc ác của Huyện, đồng thời không thể không thương một người đã hiểu ra, đã hối hận, âu lo đến thế. Đôi lần, Lộc Biếc muốn chăm sóc cho Huyện như một người mẹ, người chị cả, chẳng hạn nấu cho anh bát cháo gạo. Và như một người bạn, cô muốn an ủi anh, bàn với anh cách phục hồi lòng tự trọng, ý thức về danh dự cho Hộ. Cô cũng muốn bảo với anh, Nhi đã hết sợ hãi Hộ rồi; Nhi cũng chưa có ý thức đạo đức về sự nhục nhã bởi bị Hộ lạy, chỉ có cảm xúc mơ hồ, bất giác tủi thẹn thế thôi, nên cô đã hình thành ý niệm cho Nhi. Có điều, cô hiểu đâu là giới hạn cho phép. Dưới ánh trăng đêm nay, tình thương từ bản năng người nữ trong cô khiến Lộc Biếc xao động.
- Anh Huyện có nhớ nhà không?– Cô hỏi khẽ và ngọt –.
Huyện gật đầu:
- Mạ anh mới gửi thư vào.
- Mạ biết chuyện vừa rồi không hở anh Huyện?
- Kể làm gì. Anh đâu còn con nít. Chuyện ấy đúng là phút điên rồ! Khi không nhục hình học sinh!
Huyện thở dài. Lâu nay Huyện chỉ chinh phục Lộc Biếc như thói quen của chàng trai được lắm cô gái săn đón. Huyện thấy anh không bao giờ yên lòng được nếu có cô gái nào dám lơ đễnh khi gặp anh. “Đến, thấy và chinh phục”, là phương châm của tên tướng, gã vua thực dân nào xa xưa ở châu Âu, đã tự bao giờ thành phương châm yêu đương của anh. Có đến hai mươi cô gái say anh đến suýt chết, nhưng Huyện chỉ để thoả mãn cái tôi của chính anh! Chinh phục được, lòng Huyện nản ngay, chỉ đùa cho cô gái mới xiêu lòng vì anh, quay quắt buồn nhớ. Riêng với Lộc Biếc, Huyện cũng nản lòng, có điều không phải nản vì thắng, mà nản vì bại. Bảy tháng, bằng mọi thủ thuật chinh phục, anh không cách nào thắng được trái tim cô. Anh hiểu Nam và Khoai chứ, do đó anh có nể bạn, chưa ráo riết chinh phục lúc đầu. Rồi về sau, anh tự ái, tự ái bởi Lộc Biếc, nên Huyện bất chấp tình bạn. Huyện định thắng rồi sẽ rút lui! Huyện chưa nói với ai ý định của anh, một ý định đáng trách … Huyện lại thở dài. Lần đầu tiên, anh đã bị cảm hoá, không thể vẫn là mình được nữa. Anh lại bị cú sốc “phi nhân”. Lộc Biếc là nguyên nhân phụ hay chính để anh trượt chân vào cú sốc độc ác ấy?
Huyện vẫn đau một niềm đau nhói nhói bởi Lộc Biếc.
- Lộc Biếc! Khi không buồn quá phải không? Cảm ơn em nhiều nghe. Có lẽ anh sẽ qụy mất nếu không có Lộc Biếc.
Ánh trăng và giọng Đà Nẵng pha Huế dịu ngọt của Huyện khiến Lộc Biếc cảm động. Cô chớp mắt, nhìn lãng ra phía những khóm sả ướt sương.
- Lộc Biếc!– Huyện gọi thầm thì –.
Cô run lên, cơ hồ âm thanh mới phát ra từ môi Huyện chạm khẽ vào tim cô.
- Dạ.– Bỗng Lộc Biếc buột miệng như một cô gái bé bỏng –.
Lộc Biếc quên mất cô chỉ sinh sau Huyện vỏn vẹn tám tháng trên cõi đời này.
Với kinh nghiệm đã thành bản năng nhạy bén, Huyện hiểu anh đang bước dần đến chiến thắng. Lộc Biếc cũng mơ hồ hiểu, chính sự mủi lòng, trước vẻ hốc hác do hối hận rất nhân tính của Huyện, đã khiến niềm cảm mến của cô thêm sức nặng, làm trái tim cô trĩu xuống. Nỗi kinh sợ của Lộc Biếc về Huyện hầu như tan biến mất. Với kinh nghiệm, Huyện nhìn vào đôi mắt đen láy ngập ánh trăng của Lộc Biếc. Anh đang thôi miên cô, trước khi gắn vào đôi môi cô nụ hôn “á phiện” của anh. Nhưng Nam và Ka Kring đang ngồi bên dãy bàn ghế bên kia! Hai cánh cửa phía sau lưng đang hắt ra hiên ánh đèn dầu! Huyện cảm thấy hơi lúng túng.
Lộc Biếc vội trấn tĩnh lại. Cô hết hồn, chỉ chút nữa thôi, ở khung cảnh khác, làm sao cô có thể cưỡng chống. Ngay từ đầu, cô đã muốn bỏ vào nhà. Cô giận Nam quá. Sao Nam dám gần gũi Ka Kring, dần xa lánh cô! Bằng trực giác, cô hiểu Nam và cả Khoai nữa! Cô biết làm sao được! Ngồi với Huyện thế này, có phải cô muốn “trả thù” Nam? Trong tâm hồn Lộc Biếc có những khúc mắc khiến cô đau lòng. Cô cũng không thật rõ mình. Ánh trăng cùng ma lục trữ tình dễ đẩy người ta sống khác với lòng mình chăng?
Lộc Biếc sực nhớ bài thơ “Cái tát của đoá sen hồng”, thuở mới vào đại học, cô chép được trên một tờ báo. Bài thơ ấy bảo cô tát vào mặt Trường, người cô trót một thời yêu … Cô đâu ngờ lại có dịp gặp tác giả! Nguyễn Trần Nam, tên anh, kí bên dưới bài thơ đã trở thành kỉ niệm riêng của cô, cái tên cô sực nhớ, lúc cùng trên xe từ Đà Lạt về Công, đầu năm học, với anh ấy, với Huyện và Khoai. Sau này, đọc bản thảo của anh, cô đã chắc hẳn điều đó, cố giữ kín kỉ niệm riêng của mình. Đời có những ngẫu nhiên đến kì lạ! Đôi khi, cô nghĩ giữa cô và Nam như có duyên số thế nào ấy. Trong lần về nghỉ Tết vừa rồi, Lộc Biếc càng thấy rõ điều này. Bạn học năm lớp hai ở trường Quốc Anh, láng giềng hồi tấm bé, lại là kẻ đã bằng thơ của mình ngăn Trường hôn cô! Cơ hồ “ông trời” đã dành Lộc Biếc cho Nam, Nam cho Lộc Biếc tự phôi thai. Cứ ngỡ như trong một thoáng huyền thoại! Huyền thoại bỗng dưng lại có thật!
trả anh nụ hôn cưỡng đoạt
má rần bỏng vết sen hồng
em khóc, nhìn anh ngơ ngác
tay hương lả cánh buồn không? (43)
Chẳng hiểu sao Lộc Biếc không muốn nghĩ Nam đã tự phê phán và đã cảm phục cô gái nào đó của anh trong bài thơ ấy. Vâng, bài thơ xinh xắn viết giúp cho nhân vật chàng trai nào kia của Nguyễn Trần Nam vang vọng trong trái tim cô. Bốn dòng chữ như được in bằng một thứ mực với các tinh thể giãn nở, đã nổi lên trong trí nhớ Lộc Biếc, bởi ngọn lửa thiện tâm, lúc này, khi ngồi bên Huyện. Ánh trăng! Ánh trăng trữ tình suýt làm hỏng Lộc Biếc! Cô muốn vụt chạy vào gian nhà nữ. Lộc Biếc lại nhìn qua Ka Kring và Nam. Họ như hai sinh viên trong một giảng đường vắng! Lộc Biếc muốn ngồi với Huyện chút nữa, bởi cảm thấy chả nên đột ngột bỏ vào như thế.
- Lộc Biếc này!– Huyện khẽ khàng –.
- À, anh Huyện!– Chẳng biết nói gì, Lộc Biếc hỏi vu vơ –. Xứ Huế của anh, phong kiến, và là xứ sở của chùa chiền phải không? Trữ tình, trí thức nữa?
- Ừ, nhưng cũng tuỳ người, tuỳ gia đình.– Huyện chợt hiểu Lộc Biếc khiêu khích anh, cho anh còn rụt rè, chưa dám quên đi giáo điều “bất thân” giữa nam với nữ –. Nhà anh đâu có cho rằng con gái phải ít học hơn con trai, chẳng hạn … và cũng tự do yêu đương …
Huyện nói, cùng lúc nắm lấy Lộc Biếc đang đặt trên bàn. Anh chỉ kịp có cảm giác mát lạnh hơi sương, cô đã rụt tay về. Lộc Biếc nhìn qua Nam bên cạnh Ka Kring. Cô bỗng giận mình ghê gớm.
- Em vào nhà đây!
- Thôi, anh xin lỗi. Ngồi chơi một chốc nữa đã.
Lộc Biếc ngồi dang ra. Cô nuối tiếc gì, sao còn ngồi đây! Lộc Biếc chẳng rõ. Huyện có một sức hút lạ lùng!
Lộc Biếc nhìn lên vầng trăng mười bảy. Cây đa thần in một vết nhơ mờ mờ trên vầng trăng sáng ấy. Cô giật mình nhớ đêm trung thu đầu năm học này. Đêm đó, Lộc Biếc đã liên tưởng đến cổ tích chú Cuội – cô Hằng và nỗi nhớ trần gian của Xen Tếch (Saint-Ex[upery]). Lộc Biếc cũng giật mình khi nhớ Huyện mơ làm nhà bào chế hoá dược. Chẳng lẽ rồi Huyện sẽ ích kỉ như chú Cuội để Lộc Biếc phải làm cô Hằng tội nghiệp mãi mãi xa cách trần gian? Ích kỉ là cô độc, dẫu hai người, dưới gốc đa thần dược!
Huyện vẫn đang hiểu nhầm Lộc Biếc! Anh những muốn bàn ghế này có đôi cánh, vỗ nhẹ để đưa cả anh lẫn Lộc Biếc đến một nơi hoang vắng. Trên cánh đồng yêu đương, sẽ nở rộ muôn ngàn nụ hôn “á phiện”, đoá hôn “ma tuý” … Huyện bỗng rúng động trong giấc huyền thoại, khi hiểu ra, căn nguyên sâu xa dẫn anh đến hành vi nhục hình học sinh là những nụ hôn hạ nhục các cô gái đã mê muội anh. Anh chỉ mới dám đùa bỡn với các đôi môi trinh bạch, nhưng rõ ràng anh quen sỉ nhục một cách thích thú và khoái lạc các cô gái yêu anh, bằng cách đó. Quen làm nhục các cô gái, nên anh bất giác đã làm nhục Hộ bằng cách bắt Hộ quỳ gối, khạc nhổ lên tên họ và giấy trắng học trò những bãi nước bọt hoà máu từ kẽ răng? Huyện rùng mình sợ hãi, ghê tởm chính anh. Liên kết lại các nguyên nhân sâu xa, Huyện thấy mình đang trôi theo lô gích của lòng hối hận, ăn năn tận đáy tâm thức.
Huyện nấc khan như muốn trào một hòn máu bầm ra khỏi miệng. Lộc Biếc chừng linh cảm điều gì, cô hoảng hốt chạy vào gian nhà nữ. Các cô giáo ngồi quanh cây đèn dầu đặt trên bàn, ngạc nhiên nhìn Lộc Biếc, rồi nhìn ra Huyện, lặng lẽ, cô độc ngoài sân. Ôi, may sao chỉ là những nụ hôn “ma tuý”!– Huyện thầm bảo, cúi gục đầu –.
Ka Kring đang ngồi bên Nam trên chiếc ghế dài gắn liền với bàn viết học sinh, bông đùa, đọc thơ và chuyện trò phiếm, khác chi hai sinh viên trong giảng đường vắng, bỗng thấy Lộc Biếc đi nhanh vào nhà. Cô thấy đêm chưa khuya, song cũng bất tiện. Ka Kring chào Nam. Với áo váy thổ cẩm Tây Nguyên, cô bước vào gian nhà nữ, y như một sơn nữ mới bước ra từ thần thoại hiện đại của cao nguyên đỏ.
Đêm đó, một đêm nữa trong nhiều đêm Lộc Biếc tự hỏi lòng mình: Thật sự trái tim hai mươi bốn tuổi, kể cả một tuổi trong lòng mẹ, đang rối nhịp sau vòm ngực cô, đã và đang yêu ai?
Đêm đó, lại là một đêm xao xuyến, thao thức nhất của Ka Kring – hoá thân của dòng suối Đạ Nga trữ tình.
Nằm đắp chăn trên chiếc chiếu ở tầng hai, tầng giường phía dưới là Lộc Biếc, Ka Kring nhìn mái tôn ướt đầm sương đêm. Có lẽ hơi nước, từ nền đất, từ gió đã đọng lại không những phía bên trên của mái tôn, mà cả phía dưới, trong nhà nữa. Sương chảy leo theo sóng tôn. Đôi khi, có hạt sương lạnh buốt rơi trên chăn, trên giáo án. Cô mở mắt, rồi lại nhắm mắt, nhớ lại vầng trăng của những gì Nam cùng cô đã nói với nhau.
Lúc Suối Vui, Trăng Thu, Lá Xuân và Đoá Xuân chào Nam, Ka Kring để đến nhà phụ huynh ở xóm trung tâm, Ka Kring biết có dịp tốt để đùa vui với Nam. Cô thầm cảm ơn bốn người bạn gái của mình đã rất biết điều với nhau. Ka Kring suýt bật hai tiếng “cảm ơn” nhưng kịp kìm lại. Với Ka Kring, tế nhị với nhau là phải thế chứ! Hãy biết nhân danh Trái tim Yêu đương để chúc lành cho Yêu đương chứ! Và rất hồn nhiên, Ka Kring lại nói: “Trăng tuyệt vời quá, anh Nam thấy không? Trăng dành cho những hai người yêu nhau trên trái đất. Anh Nam đâu phải là thi sĩ, mà tu sĩ!”. Ka Kring thấy Nam cười. Chiếc kính cận trên sống mũi anh lấp lánh. Nam bảo: “Em đúng là sơn nữ của huyền thoại mới. Em mở ra trong mắt anh một cái nhìn rất mới. Nhân tộc Kinh không ban cho anh cái nhìn đó. Anh đâu ngờ người nữ lại tuyệt vời như cung cách Ka Kring. Em giúp anh hiểu một phong cách nữ rất tương lai của nhân loại. Nhân loại, trong đó có sắc tộc Kinh, còn lâu mới vươn tới được phong cách đã được giải phóng như Ka Kring!”. Ka Kring cười khanh khách: “Đừng tán tỉnh để gạ gẫm nhé!”. Nam cũng bật cười: “Ka Kring đang đứng ở địa vị bình đẳng của phụ nữ, sánh với nam giới”. “Lại nịnh ư, ông nỡm?!”.– Cô nói –. “Thật ra, tục bắt cái chồng của nhân tộc K’Hor, và của nhân tộc Chiau Mạa em là cổ … Em bắt cái chồng theo mệnh lệnh trái tim em … Và em có thể thất tình, dám khóc lớn nỗi thất tình ấy theo cách của em. Anh Nam có nỡ lòng nào để em thất tình không? Không yêu em sao?”. Nam cười: “Thú thật, ban đầu nghe Ka Kring nói thế, anh run rẩy, rồi ngỡ Ka Kring xem anh là trò đùa. Anh vừa vui, vừa đau. Cảm giác mâu thuẫn này trong lòng anh, anh lần đầu nếm trải”. Ka Kring hỏi ngay: “Anh không tin em yêu anh thật sao? Ka Kring muốn bắt cái chồng là anh Nam thật mà”. Nam cười. Ka Kring để ý thấy, nụ cười của Nam dần tắt. Nam xúc động, như một lần Nam đã nói ở suối đá, Nam thầm biết ơn cô gái lai Ka Kring chăng, sao nét mặt Nam lại ưu tư! Ka Kring khẽ bảo: “Anh Nam nhớ người yêu cũ ư?”. Nam lắc đầu: “Thật lòng, có rất nhiều khi Ka Kring chiếm lĩnh cả tâm hồn anh đấy. Ka Kring là một sơn nữ mới và lạ. Ngày xưa, anh hát “Sơn nữ ca” của Trần Hoàn, cái ông nhạc sĩ tài hoa, người Quảng Trị, anh cứ nghĩ đùa, ông ấy muốn “Sơn nữ ca” phải ôm trùm cả cõi “trần hoàn” thế gian này kia đấy. Anh không thể nghĩ sơn nữ anh gặp lại là em. Em có phong cách sống rất nhân loại thật đấy. Em rất Thái, rất Mường, rất Ê Đê, rất K’Hor, rất Chiau Mạa, rất Đa-ghét-x-tan (Daghestan) của Gam-da-tốp (Gamzatov), rất Hi Mã Lạp sơn …”. Ka Kring mỉm cười: “Anh Nam mung lung quá. Có thật em chiếm lĩnh cả tâm hồn anh không? Sao mình không yêu nhau?”.– Ka Kring xúc động đến nghẹn ngào –. Cô chỉ muốn hỏi thẳng và mong Nam nói cho cô hay. Nam cứ nhìn trăng, nhìn ra các đồi trà sương khói nhuốm trăng, các mái tôn lấp loáng trăng bên K. Ka Kring chẳng biết anh nghĩ gì. Có lần, cô nghĩ Nam e ngại cô là cô gái lai. Mặc cảm lai Tây là điều có thật trong xã hội vốn là nạn nhân của thực dân, đế quốc Âu – Mỹ. Cô đâu ngây ngô không hiểu điều đó. Vả lại, cô biết, phần lớn người châu Á không có gốc du mục. Đa số là các dân tộc sáng tạo ra nền văn minh lúa nước, đi lên bằng nền văn minh lúa nước, định cư một chỗ tự lâu đời. Gốc chim Lạc thiên di đã quá xa vời ở người Kinh. Dẫu dân miền núi du canh du cư, cũng chỉ luẩn quẩn trên một địa bàn. Họ tránh yếu tố lai để tự vệ, bảo tồn nòi giống. Dân Âu, gốc du mục, đi xuyên các lãnh thổ, mặc dù cũng chống yếu tố lai nhưng có điều kiện dễ dàng để rồi sẵn sàng hoà huyết, hoà tộc. Cô biết, ngoại trừ bọn phát xít Đức, các dân tộc Âu – Mỹ không coi yếu tố lai giữa các tộc da trắng là quan trọng. Và ngoại trừ bọn phân biệt chủng tộc, khinh miệt da đen nửa đầu thế kỉ hai mươi trở về trước … Ngày nay Âu – Mỹ có khá hơn trong ý thức … Ka Kring hiểu Nam. Tuy nhiên cô lại thấy anh rất chan hoà với người K’Hor, Chiau Mạa thuần tộc. Cô quý Nam ở điểm đó. Có điều cô e rằng anh chưa vượt lên được mặc cảm vô thức để vươn tới lí tưởng – lí tưởng thường còn ở mặt nhận thức, chưa thành tình cảm cụ thể ở nhiều người. Ka Kring bâng khuâng buồn. “Anh Nam!”.– Ka Kring khẽ buột miệng –. Nam nói: “Anh mong Ka Kring nói gì cho ấm áp đi”. Ka Kring hơi run. Cô không ngờ cô lại buột miệng lần nữa với Nam: “Nếu em bắt anh Nam làm cái chồng, em triệt sản nhé”.– Ka Kring bỗng da diết với bản tính hồn nhiên của cô. Anh lắp bắp: “Ka Kring … nói gì thế?”. “Anh Nam yêu em, nhưng sợ có con cái lai phải không? Anh sợ có con da đen, da trắng chứ gì?”.– Ka Kring nghẹn ngào. Cô cắn chặt môi. Cô lại bụm tay vào mũi và miệng. Ka Kring không muốn bật khóc. Nam lạnh người. Ka Kring nói lên nỗi vướng mắc, dằn vặt của anh! Đó là sự thật của tâm tư Nam. Nam chỉ muốn hoà tộc trong phạm vi năm mươi ba nhân tộc Việt Nam thôi. Đó là nhận thức, tình cảm công dân, tình cảm thi ca và khát vọng hạnh phúc riêng tư của Nam. Yêu đương siêu chủng tộc, siêu quốc gia, Nam thật lòng thấy đẹp, song anh biết không thể. Anh sợ sự xoá nhoà nòi giống Việt Nam. Ka Kring cố gắng bình thản trở lại. Một lúc lâu, Ka kring nói: “Em chỉ yêu anh với khát vọng tình nhân, vợ chồng. Hạnh phúc, thôi thì chỉ thế. Em không cần hạnh phúc làm mẹ, làm bà! Được không Nam?”. Nam xúc động muốn khóc. Anh không ngờ Ka Kring yêu hồn nhiên mà sâu nặng đến thế, và quá chừng đau xót! Triệt sản ư? Tốt quá. Cũng hơi buồn! Họ Nguyễn Trần anh thừa con cháu nối dõi. Anh cần gì sinh con cháu đâu. Anh định gật đầu. Nhưng Nam thương Ka Kring. Sao Ka Kring không bắt cái chồng là ai khác, chứ không phải Nam, và người đó sẽ chấp nhận một lũ con đa chủng tộc do Ka Kring sinh ra, như hôm nào ở buôn B’Kẽh Ka Kring đã cười đau xót nói, lũ con ấy sẽ là đứa đen, đứa trắng, đứa vàng, đứa tổng hoà các sắc tố, đủ các màu da, với gien trội, gien lặn, ở các thế hệ, theo quy luật tự nhiên mà di truyền học đã đúc kết? Anh sợ cô nông nổi, rồi oán hận nhau sau này. Đúng là bất ngờ đến bàng hoàng. Ka Kring đã đưa anh cùng cô vào một tình huống để phát hiện ra chiều sâu ý thức, cả vô thức của mình. Chẳng lẽ anh tầm thường đến thế? Anh có “bệnh màu da”, phân biệt chủng tộc trong đáy sâu của tâm thức ư? Và Nam tự hỏi, liệu lời giải của bài toán di truyền học kia có đúng theo công thức, định luật thực nghiệm sinh học? Hay anh đã chấp nhận lời giải đó theo tâm lí học dân tộc, đặc biệt là tâm lí học nghiên cứu về dân tộc Việt Nam, một dân tộc phải thường xuyên tự vệ, bảo tồn nòi giống để tồn tại trước mọi âm mưu đồng hoá? Dưới ánh trăng, Ka Kring cố gắng đọc những ý nghĩ, cảm xúc của Nam qua cử chỉ, nét mặt, các câu nói chưa dám bày tỏ hết nỗi lòng của Nam. Nam thỉnh thoảng lại nhìn trăng, thoáng liếc sang dãy bàn ghế Lộc Biếc với Huyện đang ngồi. Ka Kring bỗng thấy Lộc Biếc ngồi dang ra xa, không dám ngồi gần Huyện như các sinh viên trong các giảng đường thường giữ khoảng cách vừa phải. Ka Kring nhạy cảm với điều ấy, cô hiểu Lộc Biếc đang tránh một nụ hôn! Ka Kring lại hồn nhiên mỉm cười. “Anh Nam”.– Ka Kring gọi khẽ tên người cô yêu –. “Hạnh phúc với em là vậy đó, và em sẽ là một cô giáo giỏi. Đơn giản thế thôi. Đơn giản mới có hạnh phúc, anh Nam à”. Nam nhìn cô: “Đúng, anh từng nói với Huyện và bạn bè, hạnh phúc là chọn chỗ đứng phù hợp với điều kiện của mình. Anh có cao vọng làm một nhà văn, nhà thơ cỡ lớn, nên anh khổ trong lao động nghệ thuật, song rất hạnh phúc bởi lao động ấy là lao động một mình …”.– Nam mỉm cười –. “Anh yêu Ka Kring biết bao! “Sơn nữ ca” của Trần Hoàn rồi sẽ được đặt lời hai. Lời một buồn, lời hai là hạnh phúc. Hồi nãy, anh chưa nói hết ý như vậy … Sơn nữ phải bắt cái chồng lữ khách miền xuôi để sinh con đẻ cái chứ!”.– Nam lại nhẹ giọng –. “Sao em không thuần tộc Chiau Mạa, hay chỉ lai các tộc trong nước nhỉ!”. Ka Kring vẫn khúc khích: “Anh ngốc thế nên khổ! Yêu em, em sẽ bắt cái chồng là anh, cưới anh. Em triệt sản. Hai đứa mình là “tình nhân” đến già. Không tuyệt sao, hở anh Nam?”. Nam ngẩn ngơ bởi ý tưởng rất huyền thoại, rất địa đàng với hạnh phúc trần thế mà nhiều người cố cải biên lại khác với Kinh thánh. Ka Kring lại ngây ngất trong vẽ vời tương lai: “Em sẽ vẽ tranh, dạy học. Anh mãi làm thơ, viết văn và dạy học. Hai đứa sống trong một ngôi nhà nhỏ xíu, có mảnh vườn xinh xinh. Thích không hở ngốc?”. Cô cười khe khẽ tuy muốn khanh khách cười cho bằng thích. “Em vẽ khá nhiều tranh rồi, anh biết không? Dạo sau này, màu dầu hiếm, em kí hoạ, vẽ bút sắt với màu nước …”. Nam cười, say đắm nhìn cô gái lai xinh đẹp lại giàu tưởng tượng: “Em tuyệt vời quá, sơn nữ ạ”. Nam muốn bày tỏ bằng một nụ hôn trên đôi môi Ka Kring bóng ánh trăng quyến rũ, nhưng anh nhìn ra xa, nao nao, bổi hổi. Hương tự nhiên rất da thịt trắng trong của cô gái lai như có hơi ấm, hơi ấm anh chỉ cảm nhận bằng ảo giác của niềm yêu ngây ngất. Ka Kring cơ chừng đọc được cả cảm xúc thầm kín ấy của Nam, hay cô chỉ tưởng tượng, cô cũng chẳng rõ. Ka Kring chợt thấy Lộc Biếc bước nhanh vào gian nhà nữ. Cô biết cũng đến lúc phải vào, để Nam cũng vào phía gian nhà nam, hai người hai cõi mộng mơ sau cuộc say trăng.
Ka Kring nhìn lên mái tôn đọng sương đêm. Ánh đèn dầu toả sáng lên, lóng lánh các dòng dương, hạt sương trên sóng tôn. Cô Phước đang đọc sách. Cô thấy Cam Ly suy tư, đang ngồi viết gì với vẻ mặt rười rượi buồn. Thư cho Hải chăng? Suối Vui đang mải mê, cần mẫn chấm bài. Suối Vui cứ vui một mình hoài sao?
Ka Kring chợt nghe tiếng gõ cửa mặc dù cửa vẫn mở hé. Cô thấy Huyện ló mặt vào, hốc hác, hốt hoảng, buồn khổ:
- Cô Phước ơi, cho tôi gặp Lộc Biếc một chút?
Ngạc nhiên, cô Phước bước ra:
- Có gì không, đồng chí Huyện?
- Cho tôi gặp Lộc Biếc. Xin lỗi, hơi khuya rồi …
Lộc Biếc bỏ chăn, mang dép, bước về phía Huyện.
- Lộc Biếc! Cho mình nói cái này một chốc thôi.
Lộc Biếc ngần ngừ. Cô mở cửa bước ra hàng hiên, ý tứ không khép cửa lại, để ánh sáng đèn dầu hắt ra bàn ghế ngoài sân. Đứng một bên cửa, trong khoảng tối, Lộc Biếc thấy Huyện chừng đang thảng thốt, khiến cô vừa lo vừa thương.
- Lộc Biếc!– Huyện không còn là anh trước đây nữa, đang lúng túng, bối rối, biết không đúng lúc, vẫn muốn nói điều gì đó –.
- Có chuyện gì không anh?– Cô hỏi rất khẽ –.
- Anh muốn nói, anh yêu em. Em đồng ý không?
Lộc Biếc sững sờ. Cô không tin Huyện đang đứng trước mặt cô. Lộc Biếc mở to mắt. Huyện đã thay đổi vậy sao? Cô ngần ngừ, rồi lắc đầu trước chàng trai thảm hại:
- Không. Em xin lỗi phải nói “không”.
Lộc Biếc vào nhà, vội lên giường, trùm chăn kín đầu, ứa nước mắt.
Cô Phước lặng lẽ đi ra, thấy Huyện mới quay lưng bước về gian nhà Nam. Cô nhẹ tay đóng cửa, sau khi nhìn ánh trăng đã mờ hơi sương ngoài sân, khẽ chép miệng. Cô cũng chẳng hiểu điều gì đã xảy ra! Cô Phước chợt nhận thấy, với chức vụ hiệu phó, cô bỗng dưng già đi đến mười tuổi trong nhà tập thể này, mặc dầu cô chỉ mới ở tuổi hai mươi hai!
Bên gian nhà nam, Khoai cũng vừa đóng lại cửa cho Huyện.
- Bình tâm đi thôi, Huyện ạ. Phải giữ sức khoẻ. Xa nhà, khổ lắm.– Khoai khẽ nói, với một nỗi buồn trong vắt như những giọt nước mắt trong thơ của anh, những giọt nước mắt suốt đời anh chiêm ngưỡng và dặn lòng mình luôn vươn tới –.
39
Đêm ba mươi tháng tư, bốn năm sau Ngày Thống nhất, tại phòng học lớp bảy, trước hai cây đèn dầu đặt ở bàn giáo viên là bốn cây đèn dầu khác đặt ở các bàn học sinh. Các giáo viên của Phân hiệu A cùng các phân hiệu trưởng, đoàn viên ở B, C, ở K đã họp mặt để kỉ niệm hai ngày lễ lớn trong năm, Ngày Giải phóng Miền Nam và Ngày Quốc tế Lao động. Đêm nay cũng là lễ kết nạp đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cho các đối tượng đoàn.
Dưới cờ Tổ quốc, giữa bảng đen là chân dung Bác Hồ. Hai bên ảnh Bác là cờ Đảng, cờ Đoàn Thanh niên Cộng sản.
Anh Ruộng mời anh Giảng, anh Quỳnh phát biểu cảm tưởng về hai ngày lễ lớn. Sau đó là nghi thức kết nạp. Trong sáu đơn xin kết nạp, chỉ có bốn đơn của bốn đối tượng đoàn được Huyện đoàn chấp thuận. Đó là K‘Đa, Hạ, Hoán và Trăng Thu. Bốn đồng chí trẻ đứng hàng ngang ở cửa ra vào, nhìn qua bàn giáo viên, chỗ bí thư Chi đoàn giáo viên đang đứng. Anh Ruộng đọc quyết định kết nạp. Tiếp theo, anh mới từng đối tượng đoàn tuyên thệ trước chân dung Bác Hồ, cờ Tổ quốc, Đảng, Đoàn.
… anh-téc-na-xi-on-na-lơ sẽ là xã hội tương lai …
… đấu tranh này là trận cuối cùng
kết đoàn lại, để ngày mai … (44)
Những tiếng hát vang lên từ phòng họp, trong ánh đèn dầu, trước màu cờ đỏ. Ngoài kia, chung quanh là bóng đêm.
Các đoàn viên mới bày tỏ cảm nghĩ. K’Đa bồi hồi, xúc động nơi giọng nói. Hoán cũng run run âm sắc. Hạ và Trăng Thu vừa khóc vừa phát biểu.
Ngồi dưới phòng họp, Nam cũng nổi da gà. Anh đã nhiều lần tham dự lễ kết nạp như thế này, trải nghiệm được cảm xúc chính trị với niềm chua chát riêng.
Buổi lễ cũng ngắn gọn. Nam tưởng đã kết thúc, toan đứng dậy, lại nghe anh Ruộng thông báo phần thứ ba của cuộc họp.
Anh Ruộng đọc quyết định khai trừ Huyện vì đã vi phạm kỉ luật ngành giáo dục nghiêm trọng: nhục hình, xúc phạm đến nhân phẩm học sinh. Huyện bước lên, trao trả thẻ đoàn viên, nói vài câu nhận khuyết điểm, chấp hành quyết định khai trừ. Huyện lạnh lẽo đi, đứng, nói như một người đã chết.
Sau khi dọn dẹp, bưng đèn bước lên nhà tập thể, Nam và Khoai thấy anh Ruộng ôm hộp đựng cờ, ảnh chân dung Bác Hồ có ý bước tới gần họ. Cùng bước đi một quãng, anh Ruộng nói với Nam và Khoai:
- Huyện đoàn đã gửi lí lịch hai bạn ra Quảng Trị để xác minh. Địa phương chứng thực là đúng, rõ ràng. Bí thư Huyện đoàn rà soát lại, thấy kẹt về nguyên tắc tổ chức Đoàn, nên đã hoãn … Mình cũng biết trước … Hoá ra sự nhận xét, giới thiệu của Chi đoàn cơ sở là vô nghĩa. Hai bạn thông cảm nhé.
Anh Ruộng đi vội lên phía trước.
Ka Kring vẫn sóng vai bên Nam, hồn nhiên nói:
- Hiện thực bi tráng của lịch sử cho ta “sáng mắt, sáng lòng”, nhưng giáo điều, nguyên tắc mù cả hai mắt và tối lòng. Hai anh viết đơn làm chi, em đã nói rồi!
Nam cười:
- Viết đơn đến lần thứ sáu rồi đó. Người ta bảo mình, mình phải viết. Bộ muốn “vô chính phủ” hay sao mà không viết! Bọn anh cũng biết rồi … Chúng ta không được tin dùng lâu dài!
Nam và Khoai vốn quen với cảm giác bị từ chối này, tuy thế họ vẫn tin văn chương của họ sẽ thuộc về vĩnh cửu trong khi tất cả các giá trị khác sẽ qua đi, tan biến … Dẫu sao họ cũng cảm ơn Đảng đã thống nhất được Tổ quốc, đã cho họ một lí tưởng để sống, để làm thơ, viết văn. Khoai cố đùa cho câu chuyện trở nên vui:
- Đảng đã mở đường cho thơ văn bọn anh, cho cả tranh của em đi đến vĩnh cửu mà, Ka Kring!
- Ừ, thôi, cứ nghĩ vậy …– Cô nhếch mép, cười buồn –.
Ka Kring im lặng, rồi cô lại nói, giọng lại vui vui:
- Đáng lẽ, Đoàn cũng như Đảng ở các cơ quan, trường học nên ẩn mình vào dạng mật vụ. Đó là một phương thức đã có thời áp dụng. Hiện nay, đó cũng là phương thức tế nhị, lại đỡ cồng kềnh.– Ka Kring lại cười khanh khách sau câu nói khẽ –.
Câu nói chính trị ấy, với Ka Kring, vẫn quá đỗi hồn nhiên!
Theo cây đèn dầu trong tay Nam, ba người bước đi trong đêm. Họ sực nhận ra, cứ mải nói chuyện, nên chỉ còn ba người giữa đêm vắng. Bốn bề là bóng tối. Nhà tập thể hé ra những khe sáng thẳng đứng trước mặt. Gió ban đêm cuối mùa khô vẫn lạnh buốt ở vùng cao nguyên này.
40
- Khoai ơi, đợi anh em cùng lên nhà.– Nam gọi –.
Tôi quay mặt, mỉm cười, chậm bước.
- Sáng nay, có “tiết mục” vui đấy.– Nam lại nói, khi đi cạnh tôi –.
Có một ngẫu nhiên thú vị ở thời khoá biểu, đặc biệt trong sáng thứ sáu hàng tuần như sáng hôm nay, sau hai tiết dạy đầu buổi, tập thể dục giữa giờ với học sinh xong, nhóm giáo viên bấy lâu được Lụa đặt tên là “Cộng sản cấp tiến” được nghỉ ba tiết cuối. Lộc Biếc, Ka Kring, Huyện và Nam đi hàng ngang cùng tôi trên con đường giữa hai khoảng dâu tằm. Vào tháng cao điểm mùa khô, lá dâu như chững lại, nom thưa thớt hẳn với nhiều lá già xanh đậm, lá non ít đi và cũng chóng già tuy chưa đủ độ lớn. Trên các cành, còn sót vài trái dâu tằm chín đỏ. Tôi vừa lơ đãng ngắm vừa hỏi:
- “Tiết mục” gì vậy Nam?
- Cà phê và rượu dâu, dâu hôm trước chị Lài hái đó.– Ka Kring đáp thay –. Em lấy một ít trái bỏ vào chai ngâm rượu cho đẹp –.
- Tập uống rượu sao, sơn nữ?– Tôi đùa –.
- Nhấp môi thôi. Chị Lộc Biếc cũng sợ rượu. Chủ yếu là dành cho các đấng mày râu các anh.– Ka Kring khúc khích cười –.
Dưới chiếc mũ rộng vành, nụ cười Ka Kring sáng và xinh. Lộc Biếc cũng cười rất duyên dưới vành nón lá. Quai lụa hồng màu hoa đào khiến gương mặt đẹp, trắng mịn của Lộc Biếc hồng hào thêm. Trong một thoáng nhìn qua, tôi liên tưởng đến một tứ thơ Đường.
- Nhưng có bánh quy mặn. Khỏi lo xót ruột nghe anh Khoai.– Lộc Biếc nói vui, nhắc tôi nhớ lần uống cà phê ở quán anh Trà dạo nào –.
- Ồ, quá cám ơn.– Tôi cảm động –.
Đứng lại ở vại nước trước cửa hông chái bếp, tôi múc nước xối nhẹ cho hai cô giáo rửa bụi phấn trên mấy ngón tay. Tôi cũng rửa rồi trao gáo cho Huyện. Tôi rảy hai bàn tay vào lá cây cà phê thấp cạnh đó, rút vuông khăn mỏng ra lau.
- Ở chái đầu hồi chứ?– Tôi hỏi –.
Lộc Biếc, Ka Kring đã đi vòng để ra cửa trước, quay mặt lại gật đầu.
Cánh nam chúng tôi đi vào cửa hông, qua chái bếp, phòng ăn tập thể, mở cửa hông bên kia để ra chái đầu hồi.
Những con ong mùa khô này, hình như phải đi kiếm mật hoa rất xa, tít tận rừng sâu nên có lẽ không đủ sức để bay đến nơi. Hoa ở vùng này chỉ còn độc nhất một loại, hoa khoai lang. Hoa khoai lang cằn cỗi mùa khô! Bốn đàn ong đã thưa dần. Ong chết đói dọc đường vì kiệt sức? Những con ong cần mẫn còn lại, hút mật quanh đây, phấn hoa khoai lang tim tím hai bên hông. Còn một, hai tuần nữa, trời sẽ chuyển sang mùa mưa, không biết ong có cầm cự được không. Ồ, trời mưa nhiều, ong còn mật đâu để mang về tổ! Vừa ngồi chờ Lộc Biếc, Ka Kring, tôi vừa nghĩ bâng quơ. Ừ, cũng có thể ván gỗ thông đóng thùng nuôi ong có một mùi khó ở với chúng chăng.
Nam rút ra một điếu thuốc thơm “Sài Gòn giải phóng”, tiêu chuẩn hai ngày lễ lớn còn lại, xoè diêm, nhả khói. Huyện cũng đánh diêm, đặt ngọn lửa vào đầu điếu thuốc lá, nheo nheo mắt. Huyện đã tươi tỉnh trở lại sau cú sốc “phi nhân”, cái lắc đầu nói “không” của Lộc Biếc.
Chúng tôi cùng cười vui khi thấy hai cô giáo bưng bình thuỷ, phin lọc và li.
- Phin lọc của chị Trâm đó. Lâu quá không dùng, mới cọ rửa lại.– Lộc Biếc nói –.
Tôi mở gói cà phê, cũng tiêu chuẩn hai ngày lễ vừa rồi, cho vào phin sau khi tráng qua nước sôi. Chỉ có hai phin lọc, nên cũng vừa lọc vừa nhấp môi như hôm ở quán anh Trà. Cà phê cũng tuyệt ngon.
- Hôm nay liên hoan mừng sinh nhật Bác Hồ sao?– Huyện mỉm cười, cái cười mỉm đã lấy lại phong độ phần nào –.
- Liên hoan trước! Mười hôm nữa mới tới ngày đó. Ngày đó lại cuối đợt thi học kì hai mất rồi.– Nam cười –. Giá như ngày nào trong năm cũng là lễ lớn cả thì cuộc sống lên hương.
- Bộ muốn tiêu chuẩn đại cán, đại táo hở ông tướng hồng quân X-tren-ni-kốp?– Ka Kring cười trêu –. “Chống tham ô lãng phí” (13) mà!
Huyện mở gói bánh có lẽ Lộc Biếc mới mua thêm ngoài quán, trong khi Nam chạy qua văn phòng mượn anh Giảng bộ ấm chén tiếp khách để cho trà hương ngâu vào, chế nước sôi cho trà ngấm sẵn.
Tôi chợt thấy cửa thư viện vẫn mở nhưng chị Xinh đi đâu mất. Huyện cũng vừa phát hiện điều đó. Anh hơi hoảng vì hiện nay anh là phụ tá cho chị Xinh. Huyện vội đi ra, nhìn các góc thư viện, ngỡ chị Xinh đang lúi húi kiểm sách ở các ngăn kệ gần nền. Cũng không có bóng dáng chị Xinh. Anh khép cửa, lắc đầu, đi vào chỗ chúng tôi đang ngồi.
- Kiểu này là mang hoạ vào thêm theo chị Xinh!– Huyện càu nhàu rồi cười –.
- Thư viện trường mình tí hon như cái chuồng bồ câu, nhưng có nhiều cuốn quý lắm đó. Những cuốn quý ấy lại mới keng!– Ka Kring nói –.
- Có ai đọc mà cũ! Ở Huế là hết vèo, phải móc ngoặc với các cô hàng sách mới mua được, hay chỉ có thể đọc tại chỗ ở thư viện. Chẳng ngờ cô Nhân lại mua được ngoài Đa Công!– Nam tặc lưỡi –.
Lộc Biếc gật đầu:
- Ở thành phố Hồ Chí Minh cũng vậy. Em thèm quá.– Cô cười trong lòng bàn tay –.
- Chỉ thấy mỗi K’Đa mượn đọc!– Huyện nói –. Hôm giúp chị Xinh mới biết.– Huyện bảo thế, lại hơi ngượng vì anh cũng chưa đọc mấy cuốn đó –.
- Anh K’Đa cảm phục Lộc Biếc lắm đấy.– Nam nói –. Chuyên môn sâu, các cuốn ấy của ngữ văn, anh ấy cũng đọc. Giá như mấy em học sinh K’Hor, Chiau Mạa đều cỡ như anh K’Đa thì tuyệt quá.
Ka Kring nguýt mắt:
- Bộ Ka Kring này tệ lắm sao?
- Lẽ ra, sơn nữ Tây Nguyên phải da bồ quân kia … với tóc đen, đôi mắt to, lông mi cong vút mới điển hình.– Nam nói chữa cho câu hồi nãy, lại một lần nữa bị hớ –. Anh đang viết thêm lời hai cho “Sơn nữ ca” của Trần Hoàn đó nghe.– Nam lại nói vuốt và đùa vui, mong Ka Kring đừng giận dỗi –.
- Tác giả bỏ tù anh Nam vì tội vi phạm bản quyền đấy.– Ka Kring cũng đùa lại, ngón tay chỉ chỉ với ý doạ –.
Nhấp một ngụm cà phê, Nam nói:
- Sửa lời kia! Nhưng … Ừ, đặt ca từ thứ hai, cũng mệt chuyện rồi. Thì sẽ xin phép được bổ sung cho ông trưởng ty vậy. Này nhé, lời một, chỉ một mình sơn nữ yêu thầm lữ khách, thấy thương quá. Thì đây, lời hai rất nồng ấm và hạnh phúc, người lữ khách với sơn nữ sẽ thắm thiết bên nhau để xây dựng buôn làng hiện đại, cực kì văn minh. Tình yêu vẫn là trước hết.– Nam chú thích thêm với nụ cười –. Tất nhiên ở đây là sơn nữ ngày xưa, đâu dám là Ka Kring!.
… sơn nữ ơi, đừng làm thắc mắc cho lòng khô cạn
từ nay nước mắt đầy vơi …
… sơn nữ ơi, làm chi cho đớn đau lòng
trong một thời gian rồi thương rồi nhớ …
Có lẽ “khúc mắc” xảy ra là vì trăn trở sắc tộc trong tình yêu đương. Tình yêu và sắc tộc là cả một vấn đề! Phải chăng là thế? Nhưng rồi, e hèm, lời hai của Nguyễn Trần Nam đây:
… sơn nữ ơi, tình mình thắm thiết xanh lòng không
cạn nghìn sau suối hát rừng thơ …
… sơn nữ ơi, lời em say trái tim này
say đượm nghìn sau hoài thương hoài nhớ …
Thấy được chứ?– Nam phấn khích vì cà phê và rượu dâu –. Mình xin tặng riêng lời hai này cho Ka Kring.
Ka Kring cười khanh khách, đỏ mặt:
- Xin cảm ơn, cảm ơn.– Đôi mắt nâu trong vắt đưới hai hàng lông mi của cô chớp chớp một ánh trữ tình hồn nhiên –.
Tình cảm này của Ka Kring bạn bè đều biết. Ở loại tình cảm nào cô cũng bày tỏ rất tự nhiên, không khép nép, dè dặt, kín đáo như người nữ sắc tộc Kinh, cũng không bạo dạn đến sỗ sàng như một phân số người nữ Âu – Mỹ thời nay. Cô yêu Nam hồn nhiên, trong sáng và công khai, công khai rất đáng mến, đáng mến vì chân thành. Với các cô gái Kinh, thể hiện tình cảm kiểu đó biết bao giờ mới được chấp nhận. Cách bày tỏ tình cảm của Ka Kring vừa mộc mạc, nguyên sơ, vừa tế nhị, cao sang.
Nam uống hết chung rượu dâu sau khi nhai trọn cái bánh quy. Anh như cảm được mùi rượu đỏ trong vắt trôi xuống cổ họng, từ tay mời của Ka Kring:
- Hãy tưởng tượng như xem một khúc phim diễn đạt khát vọng, mơ ước cháy bỏng của sơn nữ. Thế này, với cây đũa thần, Ka Kring gõ vào những nhà sàn dài B’Kẽh, các dãy nhà ấy liền hoá bê tông, với gạch men, mái ngói, có vách ngăn từng hộ. Mặt tiền mỗi hộ có cửa lớn, cửa sổ. Dưới cửa lớn, có cầu thang xây, có bồn hoa. Trong mỗi hộ có máy truyền hình, máy hát, bàn ghế, giường tủ … Sau căn hộ là nhà bếp, phòng vệ sinh … Dân cứ B’Kẽh, với đũa thần, sẽ có trình độ tối thiểu là lớp mười hai … Ka Tem, K’Bri và các em khác là kĩ sư, bác sĩ (y sư), giáo viên … K’Bẻo, với đũa thần, sẽ trở lại là chàng trai da nâu, nâu như thuở mới lọt lòng đến tám tuổi, với sức vóc, trí tuệ tuyệt vời. Tất cả đều biết quốc tế ngữ, ngoại ngữ. Về sản xuất, tất nhiên với đũa thần, sẽ công nghiệp hoá nông nghiệp, cả các nghề thủ công. Được như thế, đúng là một cộng đồng Chiau Mạa hiện đại, văn minh …
- Phim đang chiếu trong đầu mỗi người, theo lời bình của Nguyễn Trần Nam. Còn gì nữa không?– Lộc Biếc nói, như được thôi miên –.
- Còn chứ.– Ka Kring đáp với đôi mắt xa vời –. Ka Kring với đũa thần của mình, sẽ trở thành một Ka Kring da nâu cho vừa ý lữ khách Nguyễn Trần Nam.
Ka Kring nói phớt tỉnh, khiến mọi người cùng cười như nắc nẻ. Huyện rất thú vị:
- Sơn nữ Ka Kring da nâu, mắt to rợp bóng mi đen, mái tóc đen mượt, tâm hồn cởi mở, phóng khoáng, trí tuệ rộng và sâu, lại có tài vẽ tranh rất mực tuyệt vời! Trời đất ơi, chỉ cần thay làn da, màu tóc chứ mấy! Ồ, như thế mới đúng là sơn nữ Đạ Nga, cô gái miền núi của dòng suối chảy ở dưới chân ngọn đồi kia.– Huyện đưa tay chỉ –. Như thế mới hợp ý Nguyễn Trần Nam!
Đúng vậy, một sơn nữ thuần tuý Việt Nam như thế mới là người trong trái tim Nam. Nam bỗng trầm lắng lại sao phút bông đùa:
- Mơ thì dễ, nhưng thực hiện khó lắm. Ngay việc học, cũng phải có truyền thống lâu đời. Đâu dễ dàng gì “nhảy vọt” từ phương thức du canh du cư của công xã thị tộc lên chủ nghĩa cộng sản văn minh, dân chủ và nhân bản như dự đoán của Mác được. “Nhảy vọt”, thăng hoá kiểu đó, rõ là không kinh qua nhiều phương thức sản xuất, nhiều hình thái xã hội … K’Bri, K’Bẻo, Ka Tem và nhiều học sinh ở phân hiệu anh K’Đa không chịu học đấy. Truyền thống học hành chưa có bề dày!
Ka Kring cũng buồn bã gật đầu:
- Em về buôn của ba em ở Đạ Ân, thấy học sinh ở đó cũng không hiếu học. Còn cách sống nữa, họ sẽ rất lúng túng trong các căn hộ hiện đại, cách làm ăn, sinh hoạt hiện đại.
- Phải có máy truyền hình chiếu suốt ngày các bộ phim với cách sống như anh Nam mơ ước, trong các điều kiện sống lí tưởng ấy, về chính người K’Hor, Chiau Mạa với phong tục, tập quán cách tân, đậm màu sắc K’Hor, Chiau Mạa! Nói rõ ra, đó là những bộ phim do chính diễn viên Kinh, K’Hor, Chiau Mạa diễn xuất! Phim phải rất K’Hor, rất Chiau Mạa! Và như thế là điều kiện sống viễn tưởng hiện thực, chứ không phải viễn tưởng theo các loại sách về đĩa bay của các hành tinh khác, hoặc đến mức huyễn tưởng …– Lộc Biếc nhấp môi rượu, nên xem ra cũng “say” –.
Ka Kring tán thành:
- Đúng là các nhà mộng mơ! Phim điện ảnh hay tiểu thuyết dạng đó, không phải hiện thực chủ nghĩa. Phải khẳng định ở lời giới thiệu phim, ở trang nhất tiểu thuyết, đó là loại dự kiến! Đó là tác phẩm thuộc phương thức sáng tác hiện thực dự kiến.
Nam và tôi đã nhiều lần bàn với nhau về ý tưởng này.
Tôi quen thói tò mò của người viết truyện, song cũng hơi ngại khi hỏi Ka Kring về điều lâu nay tôi thắc mắc, lưu tâm:
- Quê Ka Kring ở Đạ Ân? Dọc đường quốc lộ Hai mươi phải không? Sao Hoán nói ở huyện lị Đa Công?
Ka Kring nhìn tôi, ngần ngừ một chốc, rồi nói luôn:
- Ba ruột của em người Chiau Mạa, lai Mỹ đen và Kinh. Trước đây, ông ở Đa Công, làm tài xế riêng.– Lần đầu tiên tôi thấy đôi mắt nâu trong vắt của cô thoáng buồn, khi Ka Kring ngừng lại –. Vâng, ba em làm tài xế riêng cho gia đình ông ngoại em. Ông ngoại em có một cô con gái tóc vàng, vì ông ngoại là người Pháp lai Nga, bà ngoại lại là người Tàu lai Nhật. Cô gái tóc vàng ấy là mẹ em đó. Mẹ em sống giữa huyện lị Đa Công, toàn người Việt, nên rất cô đơn. Mẹ em phải lòng ba em, mặc dù ông đã có vợ và vợ bị vô sinh. Sinh ra em, mẹ em phải theo ông ngoại về nước. Bà bỏ em lại ở Đa Công cho ba em! Bà không muốn mang em về Pháp! Sau vài năm, bà lấy chồng ở Thụy Điển.
Bỗng Ka Kring nghẹn ngào. Lần đầu tiên, tôi thấy cô buồn đến vậy. Tôi buột miệng xin lỗi cô. Ka Kring lắc đầu. Có lẽ cô muốn một lần tâm sự với bạn bè cho nhẹ lòng.
- Không sao đâu, anh Khoai!– Cô lau nước mắt bằng chiếc khăn tay –.
Tôi dè dặt hỏi, sau một lúc ngần ngừ, bối rối:
- Sao ba lại có trong mình dòng máu Mỹ da đen?
- Ông nội em là người Chiau Mạa lai Kinh! Ông nội là “lính mộ”, bị bọn thực dân bắt sang Pháp. Thế rồi trong thời gian ở Pháp, ông gặp bà nội là một cựu đảng viên cộng sản Mỹ, người da đen. Hai ông bà nội về sống tại Đa Công, đã mất rồi!– Ka Kring lại mỉm cười –. Bên ngoại em, mấy đời đều là đảng viên cộng sản quốc tế cả. Họ là các chiến sĩ quốc tế, hoạt động ở nhiều nước. Sau khi bị thương, ông ngoại em, người mang hai dòng máu Pháp và Nga, xin ẩn cư tại Việt Nam. Bà ngoại em, người Tàu lai Nhật, cũng là chiến sĩ quốc tế đấy.– Ka Kring lại cười –.
Tôi vẫn cố vượt lên sự ngại ngùng để tò mò hỏi:
- Nội, ngọai đều hầu hết là cộng sản quốc tế? Ồ, xem ra rất lạ và quý. Nhưng tại sao lí lịch lại khác?
- Khó bứt một người như mẹ Chiau Mạa ra khỏi cộng đồng lắm. Bà ấy bảo ba em phải trở về Đạ Ân. Bà không thể sống y người Kinh suốt đời được. Căn nhà, mảnh vườn ông ngoại Pháp - Nga em để lại, ba em phải bán cho một gia đình Bắc di cư, rồi gửi em cho họ nuôi từ năm em bảy tuổi. Gọi là bán, thật ra, gửi cả nhà, cả vườn, cả em cho họ. Ba em phải đưa mẹ Chiau Mạa về lại buôn làng ở Đạ Ân. Bà không thể sống ở Đa Công!
Tôi cảm thấy lí lịch của Ka Kring quá li kì. Nam có lần nào đó suýt hé ra cho tôi biết, song Nam lại giấu kín. Có lẽ Nam không muốn tiết lộ đời tư của người thương. Lúc này, Nam lắng nghe Ka Kring như thể lại nghe một huyền thọai có thật mặc dù anh đã nằm lòng. Lộc Biếc và Huyện ngơ ngác thật sự. Tôi nhẩm tính, trong trái tim Ka Kring có đến bảy dòng máu, nhưng chỉ có hai dòng máu Việt: Kinh và Chiau Mạa, còn lại là từ các tộc người ngoại quốc. Tôi cũng thấy Ka Kring tính huyết hệ theo phụ hệ, chứ không theo mẫu hệ như nhân tộc K’Hor, Chiau Maạ vẫn tính. Hóa ra, gia đình ông ngoại Ka Kring chỉ ẩn cư tại Đa Công, không phải là chủ đồn điển kiểu thực dân. Làm sao người ta phân biệt được một chiến sĩ cộng sản quốc tế vốn là thương binh ẩn cư (có nỗi phiền muộn riêng nào đấy) với các tên chủ thực dân da trắng khác, ở vùng cao nguyên bạt ngàn trà, cà phê này!
Chợt nghe tiếng kẻng của Hạ, Huyện hỏi:
- Tiết mấy rồi vậy?– Anh nhìn quanh –.
Tôi nói, ngỡ câu chuyện liêu trai, ma thuật, huyễn tưởng về lí lịch đã phải kết thúc:
- Tiết tư vừa hết. Bắt đầu tiết năm đấy.
- Mình có lần bảo Ka Kring là biểu tượng của tương lai rất xa, muôn vạn năm sau và vĩnh cửu mà!– Nam mỉm cười –.
Lộc Biếc gật đầu với nét mặt chân thành:
- Không tụng ca đâu, Ka Kring!
Ka Kring hồn nhiên cười khanh khách. Mọi ngươi cũng cười với cô.
- Em muốn sống với thì hiện tại, với những gì hiện có, thực có. Cái sẽ có và nên có quá xa vời. Khen thế là mỉa mai đấy nhé. Vấn đề là Ka Kring cụ thể, hiện thực bằng xương bằng thịt đây này.– Cô chỉ vào ngực mình –. Từ quá khứ cổ xưa bay tới sống với hiện tại cũng khó như từ tương lai muôn vạn năm sau bay về với hiện tại. Em ý thức sâu sắc điều này. Đôi khi, em buồn quá, dại dột nghĩ, mặc dù em vốn không thích tư tưởng bảo hoàng: Nên chăng, nghe lời bà mẹ tóc vàng, em sang Thụy Điển, sống giữa vương quốc dân chủ có vua, một nước đang quá độ từ phong kiến sang tư bản chủ nghĩa, nhưng rất hòa bình, rất thơ mộng ấy lại hay hơn ở Việt Nam. Mộng tưởng thì mộng tưởng lắm, có điều em sống rất thực tế.– Ka Kring lại mỉm cười nói –. Làm thơ hoài cổ, nhà thơ khó sống. Làm thơ viễn tưởng, nhà thơ cũng khó sống. Có rất nhiều nhà thơ gặp bi kịch, do tâm hồn họ như vậy.– Ka Kring bỗng buồn buồn, cố giấu cảm xúc bằng một ngụm trà hương ngâu thơm ngát, nhìn Nam –. Em nghĩ thơ anh Nam, trong đó, hiện thực với cái hiện có cộng với chút ít lãng mạn xã hội chủ nghĩa. Phải vậy không?
Tôi thấy Nam tránh cái nhìn của Ka Kring. Tôi biết Nam yêu thương cô gái lai này có điều vẫn lấn cấn điều gì đó. Làm sao không yêu một vẻ đẹp đa chủng tộc, đa sắc tộc như thế, một tính cách với tâm hồn như thế! Nhưng chắc đúng hơn là, trong tình Nam yêu, có thêm chút cảm phục, có thêm chút tình thương, thương nỗi lạc lõng, bơ vơ, có cha đó mà thực sự mồ côi, còn mẹ đó, song hai mươi năm chưa gặp lại một lần, không thể là K’Hor hay Chiau Mạa thuần tộc, không thể là Kinh nguyên huyết, không thể là thuần Nga, thuần Pháp, thuần Mỹ da đen, thuần Tàu hay thuần Nhật, và lí lịch đang mang là lí lịch giả, hoặc lí lịch cô vừa kể không thể là thật mà chỉ là một trò ma thuật, rất hoang đường, liêu trai, huyền hoặc, huyễn tưởng! Tôi và các bạn đợi Nam nói một điều gì đấy, nhưng anh im lặng.
Lát sau, Nam nhả khói thuốc, nhìn những sợi khói từ điếu thuốc trên hai ngón tay:
- Dòng máu vô nghĩa, lí lịch vô nghĩa. Không nên hẹp hòi đến mức quá quắt! Lẽ ra, cần phải mời các giáo sư, viện sĩ, nhà nghiên cứu khoa học ngoại quốc một trăm phần trăm ở các nước tiền tiến sang giảng dạy nữa kia! Huống chi chúng ta là người Việt sinh trưởng tại Miền Nam! Chúng ta chỉ là giáo viên thôi, chứ đâu có giữ chủ quyền dân tộc, đất nước, đâu có nắm trọng trách ở một địa phương … Mình thấy, cuối cùng vẫn là con người cụ thể, xương thịt cụ thể, tính tình, tâm hồn cụ thể. Quốc tịch của một con người chính là bản sắc dân tộc trong cách nghĩ, cách nói, cách cười, cách ăn, cách đi, cách đứng của người ấy. Ka Kring đồng ý không? Ka Kring là một người Việt (Kinh – Chiau Mạa) mới và lạ, nhưng rất thân thuộc, rất đồng bào.
Tôi thấy Nam không muốn nói điều sâu kín của lòng anh. Tôi rút một điếu thuốc lá, châm lửa, rít sâu khói vào lồng ngực.
- Mình có nhiều cái ước. Trong các điều ước, có một điều là xây dựng được một Đền thờ Tổ quốc tại đầu nguồn sông Bến Hải hay trên đỉnh đèo Hải Vân. Đó là Đền thờ Tổ quốc của năm mươi ba sắc tộc Việt Nam, trong đó vua Hùng chỉ là một biểu tượng thiêng liêng của sắc tộc Kinh, bên cạnh năm mươi hai biểu tượng khác của năm mươi hai sắc tộc đồng bào. Bình đẳng! Như thế là bình đẳng nhân tộc! Đền Hùng chỉ là nơi tưởng niệm các vị vua khai quốc đầu tiên trong lịch sử bốn nghìn năm. Việt Nam là một hiệp tộc quốc, như bao nước trên thế giới.
- Hiệp chủng quốc?– Huyện hỏi –.
- Không! Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ là dịch thoát từ USA. (45), một cụm danh từ không có nét nghĩa khu biệt. Nữ thần Tự do lẽ ra phải là một cụm tượng của ba chủng người: đen, vàng (gồm cả đỏ) và trắng!– Nam mỉm cười –. Hòa sắc ba màu: cà phê, sữa tươi, bánh quy nướng, với tỉ lệ bằng nhau, sẽ ra màu gì nhỉ, Ka Kring? Ka Kring là họa sĩ mà! Một màu nâu non có sắc hổ phách? Một màu gần như thế … màu người da vàng rám nắng …– Nam cố hình dung bằng óc, đôi mắt trở nên xa vời –. … màu kẹo ca-ra-men (caramen) … Màu da nào là tổng hòa và điển hình cho nhân loại?
Ka Kring đến bảng lịch công tác, nhặt một khúc ngắn phấn viết ở gờ dưới đáy bảng, về ngồi lại chỗ cũ, đặt khúc phấn ấy cạnh bao ni lông cà phê bột và mấy chiếc bánh quy nướng còn thừa. Bốn chúng tôi nhìn cô nghiền phấn trắng, bánh vàng, trộn với bột cà phê đen. Cả mấy anh em đều mỉm cười khi Ka Kring úp tay này để che tay kia đang trộn màu, tất nhiên chỉ là trộn đùa với một ít nước sôi từ bình thủy chế vào chén sành. Lát sau, cô mở tay ra, mỉm cười gật đầu. Trong tia nhìn của cô phóng về Nam, hình như có tiếng đùa yêu: “viễn tưởng!” hay “thực tế!”.
Nghệ không có tiết năm, anh đang lau tay, trong lúc cặp sách giáo khoa, vở giáo án cùng sổ điểm vào nách. Thấy chúng tôi, anh cười, quay vào gian nhà nam cất sách vở, rồi quay ra. Uống một ngụm trà, Nghệ nhìn vào tách pha màu.
- Vui quá nhỉ!– Nghệ thay lời chào –. Ồ, ca-ra-men!
- Bọn này bàn chuyện phiếm về các sắc tộc, chủng tộc. Chẳng hiểu sao lại xoay qua, xoay về chuyện này. Có lẽ say mộng mơ!
- Ở lớp bảy anh Nam làm chủ nhiệm, K’Bẻo, Ka Tem, K’Bri dạo này ít làm bài tập ở nhà đó!– Nghệ nói –. Mùa phát rẫy căng thẳng lắm, bọn nhỏ đó phải phụ giúp gia đình.
Nam thở dài:
- Mẹ Ka Tem lại sinh nở nữa! Tội nghiệp Ka Tem.
- Anh Quỳnh cũng phát rẫy, gầy rọp người.– Huyện hóm hỉnh –. Đèo bòng vợ con khổ thế đấy!
- Vợ con đùm đề, phải lo chứ!– Tôi cũng góp chuyện –. Thế là sắp thi học kì hai. Mười ngày nữa. Nhanh thật!
- Sắp về Sài Gòn lại rồi, thích nhỉ, Lộc Biếc?– Nam nhìn cô –.
Lộc Biếc gật đầu, mắt xa xăm. Huyện ngong ngóng chị Xinh, nhưng cô giáo quản thủ thư viện này vẫn đi đâu chưa về. Huyện bước ra thư viện, đóng các cửa sổ, đóng cửa lớn, bấm ổ khóa vào hai khuy sắt. Anh cầm chìa khóa vào, lắc đầu. Có lẽ chị Xinh đã về nhà, vọâi vã thế nào đã quên khóa cửa.
Chú mèo đực lại lững thững bước từ cửa chái sau ra. Nó nhìn nhóm giáo viên trẻ rồi lại bước thong thả ra sân. Tôi xua đi thoáng liên tưởng đến anh Trà trong óc. Ngoài sân, nắng ban trưa mùa này hầm hập nóng.
Những người bạn trẻ vẫn chuyện trò, chờ đến bữa ăn trưa.
Bất giác, tôi nhìn kĩ Huyện. Tuy mừng về sự bình phục của anh, tôi vẫn không ngờ anh chàng chóng tươi tỉnh lại đến thế. Ngã xuống, cố đứng dậy, đàng hoàng. Huyện không phải là người yếu đuối, ủy mị. Tôi cũng hiểu anh đã thay đổi nhiều. Biết nói gì, tôi đành mỉm cười với Huyện lúc Huyện vẫn nhìn thẳng vào Lộc Biếc.
41
Nhìn ra vạt đất bên kia lối mòn đã được các giáo viên, nhân viên làm sạch cỏ tranh, đánh luống lên vồng, rồi trồng khoai lang chuẩn bị cho năm học sau theo chỉ tiêu của Công đoàn trường, tôi sực nhớ một câu ca dao quê nhà:
thương ai rồi lại nhớ ai
mặt buồn rười rượi như khoai mới trồng!
và mỉm cười. Hai buổi lao động cải thiện mức sống sau kì thi học kì hai, gồm cả anh Giảng, cả Hạ, thật vui nhộn với lấm lem. Mưa đầu mùa xối xả những buổi chiều. Đất ba dan trơn trượt, nhầy nhụa. Lộc Biếc cũng cầm xà bất làm cỏ. Cỏ tranh có bộ rễ trắng phau, rất khỏe. Không làm sạch cỏ với rễ, trồng khoai xem như vô ích: cỏ tranh lên vùn vụt, lấp cả lá khoai, và rễ tranh đâm xuyên qua củ như đan! Lộc Biếc xuýt xoa vì bỏng rộp tay. Rồi cô cũng giành xà bất đánh luống, lại cắm dây khoai vào rãnh giữa vồng, lấp đất lại như ai! Tôi mỉm cười hình dung hình ảnh Lộc Biếc chiều kia, chiều qua. Công đoàn với Ban Giám hiệu lo xa. Riêng nhóm “Cộng sản cấp tiến” chúng tôi, không kể Ka Kring, không biết sang năm sẽ về đâu. Chúng tôi vừa muốn được lên cấp ba, bậc phổ thông trung học, để dạy đúng với hệ được đào tạo, vừa buồn buồn thế nào ấy. Chúng tôi sợ phải chia tay nhau, mỗi người về một trường. Ở tỉnh này, mỗi huyện chỉ có một trường cấp ba (trung học). Còn các trường ở Đà Lạt, chẳng mảy may hi vọng gì! Mỗi người về một huyện, xa nhau lắm.
Những luống khoai mới trồng kia dàu dàu thế nào ấy. Bao liên tưởng bâng quơ giữa nắng ban trưa thật vu vơ.
thương ai rồi lại nhớ ai
mặt tươi tắn nắng, thở dài gió trưa!
Đôi lúc phải đùa với mình một chút cho cuộc sống bớt buồn … Trước kì thi học kì hai, tôi thấy Nam trăn trở nhiều, và buồn. Đó là lúc anh Giảng thông báo viết đơn xin thuyên chuyển nếu có nguyện vọng. Chúng tôi đều viết đơn xin lên thành phố Trên Trời cao. Tôi cũng nghĩ Nam sẽ như vậy. Nộp đơn sau Lộc Biếc, Huyện và tôi, Nam lại xin vào xã Lộc Nam. Lộc Nam, một xã được phong danh hiệu “Xã Anh hùng”. Từ Bảo Nghĩa vào đó phải thêm mấy chục cây số nữa! Xã ấy, toàn dân đều là Chiau Mạa. Nam muốn vào đó để tích lũy thêm vốn sống. Suốt năm học vừa rồi, Nam mong đợi tin tức từ ông Võ Phả, anh Lê Phạn, anh Cao Hồng Thứ, xem thử có được chuyển về làm báo hay không, nhưng chẳng tăm hơi! Vào Lộc Nam, ở đấy chỉ có trường cấp một!
Hôm ấy, tôi hỏi Nam:
- Sao lại ngược đời vậy? Vào đó thế nào được!– Tôi can Nam –.
Nam cười, không rõ vui hay buồn:
- Để viết về người K’Hor, Chiau Mạa anh hùng!
Nam đưa cho tôi một bài thơ, anh viết hôm đạp xe vội qua B’Kẽh, nhắc nhủ, khuyên Ka Tem, K’Bẻo đi học lại sau mấy ngày bỏ học. Khác với mục đích lần đi, thơ là “Khúc vào mùa”:
rất vàng là nắng Tân Rai
chạm vào nhánh lá tràn vai nắng vàng
vác cây xà gạt, thênh thang
bàn chân lội nắng, nắng loang lối rừng
mùa mưa đã tới sau lưng
thơm vàng cái nắng là mừng cái nương
(ngày mai thóc chảy về buôn
như con lũ nắng trên đường đang đi)
chồi lên kín rẫy xanh rì
phát mau ta phát sá gì, nắng đun
mau bùng lửa, phơi tro mun
mưa tra hạt, mầm xanh phun, rộng dài
rất vàng là nắng Tân Rai
ngày mai gùi nặng đầy vai nắng vàng (46)
Nam đã thể hiện hình tượng cái tôi trữ tình trong bài thơ là một người nông dân Chiau Mạa, chứ đâu phải là thầy giáo Nam. Anh hoàn toàn nhập thân vào người nông dân Chiau Mạa điển hình. Đúng là nhà thơ nhân dân, biết quên đi “cái tôi đáng ghét” của mình!
Nam còn đưa tôi xem lại một bài thơ khác, “Ka Đum”, viết về một cô gái Chiau Mạa, vốn là du kích chống Mỹ, và rất tiên tiến trong những phong trào vận động nhân dân định canh định cư ở các buôn làng. Bài thơ này anh đã hoàn tất trước đây mấy tháng:
suối ầm ào trầm bổng giữa rừng trăng
tiếng trống tiếng cồng tưng bừng bên ngọn lửa
câu hát nồng nàn hương lúa
ché rượu nghiêng cả trời đất ngấm vào người
Ka Đum! Ka Đum! ngọn lửa mùa vui
lửa mãnh liệt, lửa cháy bùng dưới vầng trăng rực đỏ
lửa, lửa hồn nhiên như tiếng reo, lửa kiên tâm như ngọn lúa
lửa tỏa cao, từ trang sách sáng mặt người
đôi tay pạp mở lòng ra, vỗ nhịp liên hồi
thác rơi trên mặt trống nghìn năm âm hưởng mới
lồng ngực căng, rung
như cánh rừng bão nổi
cơn bão chói hồng, dậy từng đêm thao thức băn khoăn
Ka Đum! Ka Đum! cồng ngân sâu,
hương lúa ngút hơi trăng
tan trong câu hát ngày mùa,
trái tim này nghiêng vào lòng nọ
con mắt quay đi, con mắt nhìn chăm Ka Đum
như câu đố khó
đã ngời lên, lóng lánh giọt rượu vui
ơ buôn làng ơi! rừng già ta qua,
trơ lại rừng chồi
một sá lúa trăm cây cao rạp xuống!
chạy quanh quẩn nghìn đời giữa núi cao rừng thẳm
nay địu con đi dựng lán xây trường,
mỗi ngọn rau hạt thóc ngát bình yên
Ka Đum! Ka Đum! trăng tháng mười
hồng rực Tây Nguyên
bao ngọn lửa chừng như huyền hoặc
tiếng trống chạm vòm sao,
lịch sử vượt nghin năm tít tắp
giọng hát suối rừng: bao nhiêu cô gái Ka Đum! (46)
Tôi biết Nam muốn nhập thân vào đời sống thuần K’Hor, thuần Châu Mạ. Đó là một ý định tốt, lại rất khó. Làm sao tâm hồn, nếp nghĩ thuần K’Hor hoặc thuần Châu Mạ, nhưng vẫn trí tuệ, vẫn hiện đại, quả thật vô cùng khó. Chính Ka Kring cũng là một tổng hòa lạ, nữa là Nam. Tôi nói với Nam điều đó.
Nam bảo:
- Viết là mục đích sống, là lẽ sống. Phải sống hết mình để viết. Mình không còn cách nào khác là phải liều. Dạy cấp nào là điều không còn quan trọng nữa. Mọi cái đều không quan trọng, so với việc có tác phẩm. Không trông mong gì vào tấm lòng nào đâu, nhất là kẻ có lòng lại có chức quyền! Nghịch lí thế đấy! Tất cả đều phải tự thân lo lấy thôi!– Nam cười buồn, nói tiếp –. Sống một chỗ mãi làm sao mà viết! Cạn vốn sống!
Nam không nói điều sâu kín, song tôi biết, có thể đó là một dạng phản ứng của tâm trạng bất mãn chăng. Biết đâu, Nam cũng không rõ. Khó rõ được lòng mình, ai cũng thế. Tôi cũng chỉ đoán chừng. Đúng là tuyệt, nếu làm báo, cắm vào nơi nào đó vài tháng, về thành phố suy nghĩ, đến thư viện đọc sách tham khảo, rồi lại suy nghĩ … Nếu cần, trở lại chốn cũ để nhập thân, hòa mình … Nhưng đúng rồi, phải tùy điều kiện xã hội, bản thân, phải tự lo liệu.
Tôi nói:
- Làm báo, người ta không cho đâu! Bí mật mà!
- Nếu vậy, ai đọc báo làm gì! Báo chí, không có gì bí mật cả, trừ an ninh, quốc phòng. Báo chí phải trung thực. Trung thực, mới có người đọc. Và sợ gì!? Bí mật thì báo chí làm gì!
Nam nói xong, lại cười sằng sặc. Thật ra, nói thế thôi, chứ Nam hiểu hết. Báo chí mình, cũng như văn nghệ đều “lành” mà chưa “mạnh” cả! “Trung” nhưng chưa “thực”!? Một dạo khá lâu, Lộc Biếc muốn viết lí luận, phê bình, nhưng cũng rùn vai rụt cổ. Cái hăm hở thuở sinh viên mới ra trường dần dần teo lại. Suốt năm học vừa rồi, Lộc Biếc như bị án treo, từ buổi báo cáo chuyên đề đầu năm. Khi Ka Kring về trường, biết cô có tài hội họa, Nam nẩy ra ý định mới.
- Này Khoai, giá như mấy anh em mình được làm một tờ báo nhỉ!– Nam nói –. Có cây bút thơ, cây bút lí luận, phê bình, lại có cả cây truyện ngắn, cả cây hội họa nữa. Đủ bộ rồi còn gì! Cả bọn được về Hội Văn nghệ của tỉnh thì tuyệt vời!
Tôi chỉ cười. Thực tế đi, bạn ơi. Không trông mong gì đâu. Hãy thực tế làm những gì đó mình thích trong điều kiện của mình. Tôi nghĩ vậy, cũng chỉ nói với Nam, có lẽ hơi mỉa:
- Hiện thực có những nguyên tắc “bị hạn chế”, sao ông cứ mơ tưởng hão! Hội Văn nghệ tỉnh mình đã có đâu! Ông chưa ngấm nỗi đau bị từ chối à?
Nam vẫn thế, rất thực, thực đến đắng chát nhưng lắm khi cũng hão huyền. Có điều, anh hão huyền, lại ý thức rõ mình hão huyền. Hão huyền như một các tiếu ngạo chăng.
Trưa nay, nhìn ra sân nắng, lối mòn nắng và vạt đất trồng khoai ngập nắng, trong lúc bạn bè đang nghỉ giấc trưa, tôi lại nhớ Lộc Biếc, nhớ với niềm yêu da diết.
Hôm nào đó, nhân bàn gẫu chuyện viết lí luận, phê bình, cô nói:
- Khó trung thực lắm. Em thích nghiên cứu, viết các chuyên đề, chuyên luận ở mảng đề tài nào ít đụng chạm thôi. “Án treo”, thấy sợ rồi!– Cô lại rùng mình –. Năm nay, có bốn vụ ở trường mình: chi Xinh, anh Quỳnh, Huyện, và Lộc Biếc. Phải vậy không? Nhưng đừng đánh đồng Lộc Biếc với ba vụ hình sự thường phạm kia!
Tôi gật đầu, chợt thấy có những linh cảm đã trở thành nhãn tiền, đặc biệt là vụ chuyên đề. Đến lúc này tôi mới hiểu trực giác của tôi, về tính cách Lộc Biếc, về nhiệt tình tuổi trẻ nói chung, về các mâu thuẫn bức xúc trong lòng hiện thực, về độ chênh đáng kể giữa sách vở và thực tiễn, giữa nói và làm, đã mách bảo trước cho tôi. Có rất nhiều nạn nhân như Lộc Biếc do sách báo tô hồng, tuyên truyền đối ngoại. So sánh khập khiễng, là chưa có “thằng bán tơ” nào xúc xiểm để tôi hoặc ai đó phải bị “rút ngược dây oan” như các củ khoai ở nhà chị Xinh. Nghĩ thế, tôi chỉ trả lời ngay vào câu hỏi của Lộc Biếc:
- Đúng rồi …– Định nói thêm, nhưng tôi im lặng –.
Lộc Biếc nói, như muốn tôi khẳng định rõ:
- Anh không thấy sao, kể cả vụ chuyên đề của em, có người xếp nghiêm trọng thứ tư, đều là chuyện phẩm chất, nhân cách nhà giáo cả?
Tôi nhẩm trong đầu: chị Xinh, hủ hóa trong quan hệ nam nữ; anh Quỳnh, gian lận tài sản chung; Huyện, nhục hình học sinh; và Lộc Biếc, báo cáo chuyên đề “gây xáo trộn tư tưởng”. Nhưng tôi không đồng ý cách xếp thứ tự, và rõ ràng tôi không bao giờ ngu dốt đến mức đánh đồng cả bốn vụ được!
- Trung thực là phẩm chất, nhân cách nhà giáo … Tất nhiên, kêu đòi trung thực, kêu đòi bảo vệ nhân cách nhà văn, nhà giáo như Lộc Biếc hoàn toàn khác hẳn sự vi phạm tính trung thực, vi phạm đến nhân phẩm, đánh mất nhân cách của ba người kia. Phải nói là khác hẳn một trăm tám mươi độ. Nhưng vẫn có ý kiến này nọ như muốn cấm chỉ việc kêu đòi trung thực và nhân phẩm, nhân cách kia đấy! Và cũng ý kiến tương tự như thế nhưng thực tâm là tán thành, chỉ đùa lại mà thôi.
- Đúng vậy đó, anh Khoai. Có kẻ bảo, kêu đòi trung thực, nhân phẩm, nhân cách là xúc phạm nhà giáo, nhà văn, khác nào chửi họ là công cụ máy móc, là văn nô, là bồi bút! Còn anh Nam thì đùa, ngay cả việc em ca ngợi Phùng Quán, Trần Quang Long thôi là đã nhục hình các giáo viên, các người làm thơ, viết văn cùng thời, khác nào bảo họ “đánh đĩ cây bút …”!– Lộc Biếc cười khanh khách –.
Tôi cũng cười. Quả là như vậy thật. Biết thế nào được, cuộc đời! Đúng … Trung thực là giá trị nhân cách cao nhất …
Trưa nay, ngồi một mình nghĩ bâng quơ, tôi cũng mỉm cười nhớ Huyện. Huyện bảo:
- Mình sẽ làm kinh tế để tài trợ cho các bạn. Làm báo văn nghệ, lương bao nhiêu đâu! Nhuận bút thì thi thỏang!
- Nhưng ai cho Huyện làm kinh tế!– Tôi bật cười –.
Đúng là một trò hão huyền trẻ con tất, những thơ, văn, báo chí, kinh tế! Đúng là nạn nhân của một thời nửa chiến tranh, nửa hậu chiến, nạn nhân của thể chế nửa phong kiến phi dân chủ, nửa xã hội chủ nghĩa! Đắng chát nhận ra sự thật với một nụ cười.
Có lẽ, trưa nay, một buổi trưa gần kết thúc năm học, bâng quơ hồi tưởng những mẩu rời của cuộc sống bên ngoài lẫn bên trong của các giáo viên trẻ, bạn bè, tôi có thoảng chút nào dư vị bất mãn. Tâm trạng thật của con người vốn thế. Bất mãn, tuy chỉ hơi chua chát, thoáng mỉa mai thế sự, phảng phất chút hư vô, song vẫn sáng suốt khẳng định mặt sáng của hiện thực thời mình sống. Bất mãn cũng là tính người.
Khát vọng cống hiến của thanh niên, và cơ chế xã hội không thể không mâu thuẫn? Biết làm thế nào được!
Phải vậy không, Lộc Biếc với ước mơ trở thành nhà nghiên cứu, phê bình, trên sách báo, trên giảng đường đại học? Phải vậy không, Huyện với ước mơ làm vị bác sĩ bào chế hóa dược? Phải vậy không, Nam với ước mơ sẽ có điều kiện để trở thành nhà văn, nhà thơ tư tưởng? Và phải vậy không, Ka Kring với quan niệm hạnh phúc là làm cô giáo đồng thời làm họa sĩ? Ồ, còn tôi nữa chứ! Tôi cũng ao ước mình là nhà văn, mặc xã hội diễn ra theo ý chí ai đó, theo lô gích khách quan với những sáng, những tối của nó, tôi khiêm nhường, cẩn mật ghi lại thành hình tượng hư cấu, thật hơn sự thật ngổn ngang, bao nỗi đời hiện thực. Tôi cũng dấn thân với tư thế riêng của mình. Phải vậy không tôi? Còn bao nhiêu người khác nữa! Đó là nỗi đau xót nhất của người viết văn. Tôi vẫn biết trái tim tôi luôn cháy bỏng khát vọng được đăng tải trên báo chí và xuất bản thành sách những trang viết của mình. Chân thiện mĩ và khát vọng tự do sáng tác, tự do báo chí, tự do xuất bản! Đó là nhân quyền và đó cũng là quyền công dân ở một nước có hiến pháp!
Nhìn ra ngoài sân nắng, lối mòn nắng, vạt khoai mới trồng ngập nắng, tôi nghĩ đến những nhánh lá khoai già đang hiu hiu chết để sống lại, non tươi. Tôi bỗng đau với quy luật tàn ác, cường bạo của tự nhiên. Cỏ tranh phải bị “đào tận gốc, trốc tận rễ” để khỏi tranh giành, kìm và hãm các lá khoai, nhánh khoai đang héo hắt nhưng rồi sẽ được tái sinh. Cỏ tranh, biểu tượng của nông thôn với triệu triệu người qua ngàn năm chân đất, trên bao mái nhà yêu dấu. Cỏ tranh, thương, quý biết chừng nào! Thế mà tự nghìn xưa, cỏ tranh vẫn được trồng, đồng thời vẫn bị “đào tận gốc, trốc tận rễ” vì chúng đứng không đúng chỗ của chúng! Không đúng chỗ, bi kịch là ở đấy! Bi kịch là do quy luật tự nhiên …
Lộc Biếc! Chút ngẫu nhiên đã trở thành cơ may, một tình huống tốt đã mở ra cho thơ tôi đi vào trái tim em, cả cuộc đời tôi đi vào công việc, miếng ăn, trang viết, giấc ngủ em, có điều vẫn bản tính cố hữu, lóng cóng, dại dột, tôi nào dám nói với em điều gì. Tôi yêu em biết chừng nào! Tôi thầm lặng yêu em trong cô đơn, đau buồn, câm nín. Mừng vui với tình huống “tốt” là tôi đáng xấu hổ. Nam và Huyện cao thượng với tôi ư? Nhưng em có bao giờ thoáng yêu tôi! Hay chính bản tính tự khép lại cảm xúc mình với các cử chỉ vụng về của tôi đã khiến em chan ngán, không thích gần gũi tôi? Không đúng chỗ, bi kịch là ở đấy! Trái tim em không phải là chỗ của tình tôi! Tôi chọn trái tim em cho thơ tình riêng của tôi, không đúng chỗ! Còn trong các trang truyện của tôi, em, nhân vật nữ với nhiều gương mặt, tên họ khác nhau, chỉ “đúng chỗ” một cách quá đơn phương! Bi kịch cũng lại ở đó! Và đúng lúc? Biết thế nào là đúng lúc! Điều kiện cần với điều kiện đủ!
Tôi có gì đáng khinh bỉ, ghê sợ không khi nhìn vạt khoai mới trồng lại liên tưởng đến những ý nghĩ rất tùy bút một cách bâng quơ, tản mạn? Tôi, củ khoai làng Thuận Xá, mẹ là dân biển gần đó, bỗng rùng mình cho bản năng tranh đoạt bẩn thỉu của vô thức. Thật bỉ ổi!
Tôi nguyền rủa vô thức của tôi rồi đó, Lộc Biếc yêu dấu! Tôi chỉ biết tôi yêu em vô ngần, yêu đến vô cùng, Lộc Biếc ơi!
Chẳng lẽ tôi đang viết trong đầu óc của mình một phần của bản kiểm điểm cuối một niên khóa dạy học? Phần sâu kín này tôi chẳng bao giờ đọc trong cuộc họp để nhờ bạn bè, đồng nghiệp và lãnh đạo góp ý. Tôi tản mạn hồi nhớ, tôi tự kiểm điểm để làm trong sáng lại, thăng hoa lên tâm hồn, ý thức, cả vô thức tôi đây, ơi yêu dấu! Tôi tự kiểm điểm tận sâu kín bản năng đáng xấu hổ của tôi đây, bạn bè ơi! Tôi đang tập sự làm nhà giáo, đang rèn luyện để trở thành nhà văn. Tôi đang suy ngẫm một hệ luận có mồ hôi của trải nghiệm, có nước mắt của trăn trở trong tim ai đó: “Biến quá trình giáo dục [cho học sinh] thành quá trình [nhà giáo] tự giáo dục [bản thân nhà giáo]”. Tôi đang soi tôi vào trang văn của mình để sửa chính mình. Giữa học sinh cùng bạn bè đồng nghiệp, tôi đã sinh nở ra một tôi mới mẻ.
42
Hồi hôm các giáo viên có và không giảng dạy lớp chín đã họp lần thứ hai với Ban Giám hiệu. Các giáo viên không dạy lớp này một tiết nào trong niên khóa bảy tám – bảy chín nhưng có dạy trong các năm trước cũng tham gia ý kiến sôi nổi về trường hợp của Nhi. Nhi, con gái rượu của ông Lịch, ủy viên Ban Chấp hành Hội Phụ huynh học sinh trường. Ông đã bao lần đến trường với gương mặt, dáng điệu đau khổ. Nhi là cô bé mười sáu tuổi, trắng trẻo, cao ráo, tóc dài đen mượt, gương mặt xinh xắn nom khá sáng láng. Rất đáng tiếc là cô bé ấy lại học quá kém tất cả các môn. Đã có giáo viên kết luận: “Nhi không thể học được”. Khi họp lần thứ nhất, đa số đã đồng ý không thể cho Nhi đủ điểm để lấy bằng tốt nghiệp phổ thông cơ sở. Chốn này, vùng kinh tế mới, đi học xa đường, khó khăn, gian khổ đủ điều, và hạnh kiểm của Nhi tốt, nhưng không thể chiếu cố rồi lại chiếu cố. Tuy nhiên, đây là vấn đề số phận một con người. Một con người là cả một vấn đề hệ trọng. Ban Giám hiệu, giáo viên lại họp, đêm qua. Sáng nay lại họp một lần nữa.
- Không thể lường được tác hại khi một y tá, dược tá, cán bộ có bằng trung cấp nông nghiệp … trong tương lai lại kém học vấn phổ thông như Nhi. Kém văn hóa, học chuyên môn, nghiệp vụ cũng kém. Và xã hội sẽ như thế nào? Khốn đốn, nghèo đói, oan khốc … vì dốt.– Hoán nói – Do đó, xin đau lòng không vớt điểm em Nhi. Nhi không có năng lực trí tuệ! Đành để Nhi ở lại lớp.
Mọi người, dẫu rất thương Nhi, cũng đành biểu quyết đồng ý, vì tương lai của Tổ quốc. Không phải phóng đại. Thật là vậy. Hộ cũng bị đánh rớt, cho lưu ban vì hạnh kiểm, tuy Hộ đã có tiến bộ đáng kể trong thời gian Lộc Biếc chủ nhiệm.
Với biên bản ba cuộc họp vừa rồi, cùng bản tổng hợp các báo cáo khác, đúng tám giờ sáng, anh Giảng triệu tập cuộc họp tổng kết cuối năm. Giáo viên các phân hiệu đều tập trung đầy đủ, cả các đội viên Đội Thanh niên Ánh sáng. Phong trào “dạy tốt, học tốt”, thi đua “Về thăm Lăng Bác” đều được đánh giá cụ thể. Trong bản báo cáo, hồi nãy anh Giảng đã nêu lại các vụ việc được xem là tiêu cực: vụ Lộc Biếc với chuyên đề, vụ cô Xinh quan hệ bất chính, vụ anh Quỳnh hái dâu trộm, vụ Huyện nhục hình học sinh. Công đoàn cũng tổng kết mặt sáng, mặt tối. Anh Quỳnh cũng một lần nữa tự phê bản thân. Như đã góp ý, phê bình Ban Giám hiệu, các giáo viên lại xóay vào cái được, chưa được, không được của Ban Chấp hành Công đoàn trường, ngọt lịm và rát bỏng. Lại y hệt anh Giảng, anh Quỳnh cũng không chịu xem vụ “tự do, trung thực” của Lộc Biếc là tốt, một cách miễn cưỡng.
Bình xong, lại bầu lao động tiên tiến.
Tôi thấy Lộc Biếc cố bình thản nhưng rất đau lòng, cay đắng. Luận văn của cô, ông trưởng Phòng Giáo dục K’Đăng còn giữ. Lộc Biếc không được xếp hạng lao động tiên tiến!
Nam ngồi cạnh chị Xinh, an ủi chị. Chị Xinh, với bầu thai sáu tháng, xấu hổ, thút thít khóc. Tôi nghe Ka Kring nói nhỏ với chị Xinh:
- Đừng buồn khổ, chị Xinh! Chị cố thương đứa bé trong bụng. Chị buồn, chị khổ, ảnh hưởng đến cháu, tội nghiệp. Làm thư viện, cấp dưỡng là việc nhẹ hơn lên lớp, cứ xem như dưỡng thai. Nhìn sự việc thế là nhìn lạc quan. Cứ vui như em này … Chị vui, sau này cháu sẽ thông minh, khỏe mạnh.
Chị Xinh gật đầu, chấm khăn tay vào hai khóe mắt. Tôi muốn khóc khi nghe cô giáo lai Ka Kring nói. Con người nhân hậu ấy lại cam lòng “triệt sản” khi còn trinh nữ để được có chồng, và oái oăm thay, người cô chọn để yêu, để cưới theo phong tục K’Hor, Chiau Mạa, lại là Nam. Song tôi cũng thương Nam, làm sao Nam vượt lên nổi ý thức tự vệ của cộng đồng, dẫu người Việt Nam nhân hậu vô cùng.
Tôi lại giật mình khi nghe chị Trâm, cấp dưỡng viên, phê bình Suối Vui đã đi nhà thờ Thiên Chúa giáo ở Minh Rồng hay Đa Phát gì đấy vào mỗi sáng chủ nhật. Nhưng anh Ruộng gạt đi, anh bảo, luật pháp cho phép điều đó.
- Sao năm ngoái, thầy Lê, hiệu trưởng, lại phê bình tôi? Tôi đã bỏ đạo cả năm nay!– Chị trâm ngơ ngác nói –.
Cả phòng họp cười ầm. Chị Trâm chả hiểu sao cả, đỏ bừng mặt. Chị quên bẵng phần phê – tự phê xong lâu rồi.
Một lúc sau, gần cuối buổi họp, Lụa lại phê bình thêm:
- Tôi có ý kiến góp cho các đồng chí: Lộc Biếc, Nam, Huyện, Khoai và Ka Kring. Năm đồng chí này được nhà tập thể gọi là nhóm “Cộng sản cấp tiến”. Tôi thấy các đồng chí có những ý tưởng không phù hợp với tình hình chính trị hiện nay trong sinh hoạt. Các đồng chí không nên cấp tiến kiểu đó.– Lụa nhìn xuống đất –.
- Tôi hiểu đồng chí Lụa muốn nói gì. Tuy nhiên, xin nêu ra thật cụ thể.– Lộc Biếc nói, hơi có vẻ khó chịu về ý kiến của Lụa –. Chúng tôi không dám lập nhóm, lập hội lúc này. Chúng ta đang sống và làm việc trong một giai đọan lịch sử mà mọi quyền con người (nhân quyền) đều bị hạn chế, mặc dù các quyền ấy đã được hiến chương Liên hiệp quốc, các hiến chương quốc tế lẫn hiến pháp nước ta công nhận. Chúng tôi ý thức sâu sắc điều đó.
Tôi, thật lòng cảm phục Lộc Biếc, cũng chỉ im lặng!
Tôi cũng đóan Lụa đợi xếp loại xong mới phê bình thêm, để khỏi ảnh hưởng xấu đến thành tích của đồng nghiệp. Tốt đấy, nhưng cần gì thế nhỉ! Tốt hơn là phải chân thành, trung thực với nhau trước khi bình bầu chứ!
Tôi, Nam, Huyện và Ka Kring đã biết cô Lụa: Cô ấy nhiệt tình cách mạng một cách máy móc, chỉ tô hồng, sợ nói thẳng, nói thật các hạn chế mà cuộc sống đang diễn ra, trong trường, ngoài trường, tuy chỉ trong sinh hoạt giáo viên hằng ngày.
Tôi nghe cô Lụa phê bình khá cụ thể, chỉ im lặng.
- Chúng tôi là giáo viên nhân dân. Ai cũng có cái đầu để nghĩ, đôi tai để nghe, đôi mắt để thấy, trái tim để cảm xúc. Chúng tôi là những người cộng sản, cho dù được kết nạp và Đoàn hay không, hoặc đã bị khai trừ.– Lộc Biếc nói –. Chúng tôi nghĩ, giáo viên nhân dân, người theo lí tưởng cộng sản khoa học, phải biết căm ghét cái tiêu cực, buồn bực với cái hạn chế về các quyền con người, phải yêu thương, trân trọng và nhân lên cái sáng: chân, thiện, mĩ. Chúng tôi làm việc có sai sót, khuyết điểm, nhưng có tổ chức, có lãnh đạo.– Lộc Biếc lại hùng hồn –. Chúng tôi không là công cụ máy móc kiểu rô bốt, không óc, không tai, không mắt, không tim. Chúng tôi có quyền nhận thức xã hội một cách toàn cục với quan điểm duy vật lịch sử, duy vật biện chứng, có quyền cảm xúc trước cái đáng mừng, cả cái đáng đau lòng. Người máy, tô hồng một chiều, là nô lệ, bị nô dịch kiểu khác.
Lụa đưa mắt cầu cứu anh Ruộng, anh Giảng. Cả hai lắc đầu. Và cuộc tổng kết kết thúc với bảng xếp loại. Tất nhiên có ba người lọai C: cô Xinh, anh Quỳnh và Huyện. Lộc Biếc bị xếp loại B. Tôi thấy tôi quả là thằng hèn loại A!
Khi bước ra sân, đứng chuyện trò với nhau, bỗng mọi người thấy chiếc xe của Phòng Giáo dục đỗ xịch trước hàng rào. Lộc Biếc giật mình, lo âu, song cố giữ bình tĩnh. Huyện cũng thế. Ông K’Đăng, cán bộ khối phổ thông Nguyễn Kí và ông Binh xuống xe.
Anh Giảng, anh Quỳnh, anh Ruộng ra đón.
Sau hơn nửa giờ các vị lãnh đạo làm việc ở văn phòng, nửa giờ lo âu, hồi hộp của Lộc Biếc và Huyện, chúng tôi được mời vào gặp. Tôi cứ lo phen này chắc bị kiểm điểm, phê bình thậm tệ. Chúng tôi, nhóm “Cộng sản cấp tiến”, chỉ năm người trước sáu vị cấp trên.
Ông K’Đăng mỉm cười, đứng dậy với vóc dáng cao lớn, da nâu sẫm, tóc gợn sóng, bắt tay Lộc Biếc rồi mỗi người chúng tôi. Sau phút xã giao bình thường, tôi thấy Lộc Biếc vẫn giữ được vẻ bình tĩnh, ung dung. Cô gái ấy không còn vẻ nhí nhảnh, dễ thương, thay vào đó là vẻ chững chạc, tự tin, giấu được nỗi âu lo suốt cả năm học nay. Lúc này, tôi càng nhận ra bản lĩnh tự tin của cô. Nam và Huyện cũng cố đàng hoàng giữ nụ cười trên môi. Ka Kring hơi bối rối.
- Chúng tôi định đến dự cuộc họp Hội đồng toàn trường hồi nãy, nhưng rồi quyết định để các đồng chí trong nội bộ kiểm thảo với nhau. Chúng tôi vừa nghe báo cáo lại.– Ông K’Đăng ôn tồn nói với giọng pha thổ âm –. Đồng chí Kí cũng đang đọc lại biên bản.
Tôi thấy ông Kí đang đọc các dòng chữ của Đồi Hương trong cuốn sổ to tướng bìa đen, có lẽ đọc đến lần thứ hai.
- Chẳng có vấn đề gì. Thế là tốt. Có tiêu cực, nhưng đã có biện pháp thích ứng. Đây là một trường có nhiều nhân tố tích cực. Đúng là một trường trọng điểm của Phòng Giáo dục ta.– Ông K’Đăng lại nói –. Riêng các đồng chí, chúng tôi muốn gặp riêng. Các đồng chí có ý kiến gì, cứ phát biểu trước.
Chúng tôi im lặng. Một lúc, Nam nói:
- Thưa các đồng chí, không còn ý kiến gì nữa ạ. Có điều, tôi xin mạn phép thưa rằng, cô Lộc Biếc với vụ chuyên đề văn học, “Chân, thiện, mĩ và khát vọng tự do sáng tác …”, hồi đầu năm, bị quy ngược là tiêu cực, và suốt cả quá trình công tác, giảng dạy năm học qua bị xếp loại B, tôi thấy hơi oan uổng, xin bất bình thay cho cô ấy. Đó là ý kiến nhiều người, trong cuộc họp vừa rồi.
Ông K’Đăng gật đầu:
- Tốt. Không có vấn đề gì. Đánh giá thế là hơi ép. Tôi phê bình Ban Giám hiệu trường này là đã quá thủ thế. Lẽ ra phải duyệt trước rồi mới tổ chức cho cô Lộc Biếc báo cáo. Quá mạnh dạn rồi quá thủ thế. Làm việc kiểu đó thì không được, oan uổng cho người khác, như cô Lộc Biếc. Bao người có tài, có tâm bị “chết” bởi tâm lí thủ thế như vậy của lãnh đạo. Đánh trống cũng mình, bỏ dùi cũng mình, oan uổng cho bao người!– Ông K’Đăng tiếp –. Tôi và nhiều đồng chí ở Phòng Giáo dục đã đọc luận văn của cô.– Ông nhìn thẳng vào Lộc Biếc, vừa nghiêm nghị, vừa trấn an –. Bản thân tôi cho là tốt, rất tốt. Song theo ý kiến đa số, họ không hiểu hết, và cho là chưa nên. Thôi thì … Ta làm ngành giáo dục, lại bậc phổ thông, nên dạy, bàn luận có tổ chức những gì đã định hình, cứ theo sách giáo khoa … Thôi thì … Bỏ qua chuyện này. Tôi đề nghị xếp loại A cho đồng chí Lộc Biếc. Đồng chí Giảng vẫn A, không hạ bậc. Các đồng chí có ý kiến gì nữa không?– Nói xong, ông mở cặp rút ra cuốn luận văn “Chân, thiện, mĩ và khát vọng tự do sáng tác …”–.
Ông trả cuốn luận văn ấy cho Lộc Biếc. Cô đáp khẽ lời cảm ơn. Nét mặt Lộc Biếc tỏ lộ niềm cảm động, vui mừng.
Ông Binh đằng hắng, sau một quãng im lặng dài của mọi người:
- Nhân tiện đây, tôi cảm ơn cácđồng chí trong việc bổ túc văn hóa cho tôi. Đó là một ưu điểm … Không có đồng chí Hoán ở đây, nhớ cho tôi gửi lời cảm ơn. Xin bổ sung ưu điểm này cho các đồng chí.
- Kính cảm ơn bác Binh đã treo cho cháu cùng các đồng chí khác, các em học sinh, các vị phụ huynh một Tấm gương hiếu học – thực sự cầu thị. Học ngay cả các giáo viên tuổi cháu chắt mình là cả một Tấm gương lớn và sáng.– Lộc Biếc cảm phục nói –.
- Cảm ơn. Tôi không có ý định nêu gương. Chả là hồi trẻ không học được vì hoàn cảnh kháng chiến, tập kết ra Bắc lại kẹt lí lịch, cha tôi là lính lệ, lính Tây, cũng không học được. Suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp của dân, của Đảng, nhưng chức vụ cao nhất và cuối cùng chỉ là quyền bí thư Chi bộ xã.– Ông Binh cười –. Thôi, nói là nói thế, nhưng ở vị trí nào ta cũng trung với nước, hiếu với dân …– Ông không có vẻ gì là mặc cảm –.
Tôi ngỡ như bị ù tai, tuy đây không phải là lần đầu nghe ông Binh tự nói về mình. Tôi đợi sự phê bình, góp ý gì nữa, song chỉ là những câu nói vui của ông K’Đăng, với ngụ ý giúp chúng tôi bớt ảo vọng và giữ được sự tỉnh táo trên đường đời sau này, nhất là trong việc sáng tác, báo chí, xuất bản. Sau đó, ông cho phép chúng tôi ra khỏi văn phòng.
Lộc Biếc cười nhẹ nhõm. Chúng tôi cũng thở phào.
Nam vẫn trầm tĩnh nói:
- Trên con đường sáng tạo văn chương và trau dồi chuyên môn, không có gì khiến chúng ta sờn lòng, chùn bước. Chúng ta rồi sẽ có tự do sáng tác, tự do báo chí, tự do xuất bản và quyền được làm việc đúng với sở trường, với chuyên môn của mình. Đó là con đường nhân quyền và hiến pháp xã hội chủ nghĩa nước ta!
Tôi mỉm cười, tán thành với Nam, và chợt nhớ lời Nam thường nói: giá trị văn chương thuộc về vĩnh cửu, còn tất cả chỉ là nhất thời, rồi sẽ tan biến. Bây giờ, Nam còn nói đến giá trị chuyên môn nữa …
Sau bữa liên hoan tổng kết năm học, chúng tôi nghỉ trưa, chờ nhận giấy công lệnh kèm giấy ưu tiên cho giáo viên miền núi về giao thông, cụ thể là mua vé xe được thuận lợi.
Khoảng ba giờ chiều, anh Giảng cùng cô Phước, cô Đồi Hương đi họp báo cáo ở Ủy ban xã Bảo Nghĩa về. Anh Giảng ném cặp lên bàn ở văn phòng, càu nhàu nhưng miệng cười:
- Đồ điên hạng nặng!
Và anh triệu tập Ban Giám hiệu, Ban Chấp hành Công đoàn trường cùng ba phân hiệu trưởng khác để nâng bậc xếp loại cho anh Quỳnh. Hóa ra anh Quỳnh bán dâu trộm để giúp hai lần cho vợ anh thư kí Ủy ban nằm bệnh viện, chữa bệnh lao phổi, với lời dặn đừng nói cho ai biết! Khi anh Giảng báo cáo, anh thư kí Ủy ban không giấu được xúc động, bèn minh oan cho anh Quỳnh. Anh Quỳnh thấy anh Giảng cáu gắt, cũng đành thú nhận, là tín đồ Tin Lành, anh ấy sống theo lời Chúa, “làm việc thiện bằng tay phải, đừng cho tay trái biết”, và chịu oan khổ, nhẫn nhục để gần gũi với Thiên Chúa hơn!
Ngồi bên gian nhà nam, tôi nghe khá rõ. Tôi nghĩ đến “thú đau thương” bệnh hoạn, đã trở thành thời thượng triết học, thi ca nhiều nước, là phong trào của nhiều thời đại. Với anh Quỳnh, trong trường hợp này, giữa đời sống thật, quả là lần đầu tôi được chứng kiến. Gần Thượng đế hơn ư? Tôi cứ lật qua, lật lại câu hỏi siêu hình, thần học ấy.
43
Học sinh lại đến lớp vào sáng hôm nay. Đây là buổi cuối cùng của năm học. Các em được thông báo kết quả một cách cụ thể hơn, đồng thời ghi chép kế hoạch ôn tập hè. Trong điều kiện khó khăn, thầy và trò liên hoan tạm biệt chỉ bằng thơ, nhạc.
Đã chia tay với học sinh lớp bảy của mình, Nam bước ra hành lang. Bé Ngoan, Qua, Ka Tem, rồi sau đó là K’Bri, K’Bẻo chạy theo anh. Nam quay lại, nghẹn ngào, nhìn các học sinh suốt năm học anh lưu tâm nhất. Một lúc sau, Nam với đôi mắt đỏ hoe bảo các em:
- Những gì thầy nói vừa rồi trong lớp, các em nhớ nhé. Phải học. Luôn luôn tâm niệm như thế để học. Học, đó là lối thoát cuối cùng cho bản thân, gia đình và đồng bào. Sau này, dẫu làm gì đi nữa, có học vấn vẫn hơn. Riêng với Ka Tem, thầy tin em đã hiểu, cũng không thể quên được những gì thầy muốn nói với ba của em, đó là đoàn kết trong bình đẳng.
Các em khóc nức nở. Hình như các em không nói được gì. Đứng trong lớp sáu, tôi thấy Nam một lần nữa vẫy tay chào lớp bảy cùng các học sinh đứng khóc ở hành lang, rồi bước ra sân. Anh lại đáp lời chào và chúc của học sinh các lớp khác đã tản ra, sau buổi chia tay.
Học sinh với thầy giáo quyến luyến tưởng không rời.
Sau đó mươi phút, tôi cũng bịn rịn từ giã lớp sáu thân yêu của tôi.
Trong bữa ăn trưa cuối năm học, các giáo viên, nhân viên vừa vui mừng được về phép, vừa bùi ngùi chia tay, hẹn gặp lại sau một tháng.
Tôi cứ bâng khuâng nhìn mãi chú mèo đực ngồi trên thùng gỗ to làm chạn của bếp ăn. Tôi nhìn chú mèo vô tư lự để che giấu niềm xúc động ngổn ngang trong lòng mình.
Để tránh cơn mưa buổi chiều, chúng tôi đạp xe đạp đèo nhau ra Đa Công giữa nắng trưa.
Gặp Hạ từ nhà lên, Nam lại nói to để dặn Hạ:
- Cho gửi va li sách nghe Hạ. Giữ cẩn thận giúp nghe. Cảm ơn trước nghe.– Nam cười –. Gia sản đấy!
- Thầy yên tâm.– Hạ cũng híp đôi mắt một mí cười –. Thầy cô về phép được vui!
Chúng tôi cảm ơn Hạ, trong khi vẫn đạp xe đèo nhau. Nhiều học sinh đang đứng chơi dọc hàng hiên, ven đường vòng tay chào và chúc. Làm giáo viên nông thôn, những hình ảnh như lúc này là phần thưởng cảm động nhất.
Ở đằng xa, thấy chúng tôi, Ngoan chạy vào nhà gọi mẹ. Chị Xinh ra đứng đầu ngõ. Chúng tôi phanh xe lại. Trong sân, cô giáo Cam Ly với Đồi Hương đang chia tay Hải. Tôi mỉm cười, biết Cam Ly giữ kẽ, rủ Đồi Hương cùng ghé chào. Tôi định xin phép chào vọng vào hai cụ già (ông bà nội bé Ngoan), nhưng thấy thế là thất lễ, nên cả mấy người cùng nhau vào tận nơi để chào hai cụ.
Chị Xinh kéo Nam đến dưới gốc cây trứng gà, vừa khóc vừa nói. Lộc Biếc giữ xe đạp với hai túi xách hành lí, bên cạnh xe đạp tôi và Ka Kring đang ngồi. Những câu trước tôi không nghe rõ, chỉ mỗi một câu chị Xinh nấc lên như không kìm được đã thốc vào tim tôi nỗi xót xa:
- Cậu Nam … đừng kể chuyện … tôi … trong ni cho … ai nghe, … nghe cậu!– Chị Xinh dùng từ địa phương –.
Đó là câu cuối chị Xinh nói rồi khóc òa. Bé Ngoan cũng ôm tay mẹ khóc. Nam nói nhanh:
- Như Ka Kring dặn đó, chị cố vui, lạc quan vì thương đứa con trong bụng.– Nam cố ghìm xúc động nên giọng anh hơi rắn lại và gấp –. Nó là một Con Người. Chị phải chăm lo cho nó ngay lúc này, dạy dỗ nó sau này cho nên người.
Nam bước lại chỗ Lộc Biếc, đạp xe đèo cô đi. Chúng tôi đạp xe theo anh. Nhận ra đạp hơi nhanh, anh chậm lại.
Sau khi chào gia đình ông Binh, anh Ruộng, chúng tôi định đạp thẳng ra Đa Công. Dọc đường đất đỏ lầy lội này, tôi cười chào các cô giáo đang vén ống quần, đi ngoằn ngoèo để tránh các vũng nước ngầu đục lấp loáng nắng. Tôi sực nhớ hôm ăn xôi nếp ở nhà chị Xinh lần đầu, chị có nhắc đến kỉ niệm với Nam hồi chị mười mấy tuổi, Nam mới lên bốn. Đó là thú nặn đất sét thành tượng, một tượng khỉ lớn, con vật cầm tinh, rồi vỗ nước vào nặn lại thành bốn tượng nhỏ, cũng là khỉ tuổi thân. Với khát vọng được sống và viết có phong cách riêng, cá tính riêng, tôi hơi khó chịu khi liên tưởng chúng tôi cùng một tuổi nên có chung số phận hay có nhiều nét đường đời giống nhau. Còn Ka Kring nữa? Tôi mỉm cười thấy mình vớ vẩn. Tôi vẫn cắm cúi đạp xe, bỗng phải phanh xe lại. Anh Trà từ quán bước ra gọi Nam và chúng tôi. Gương mặt anh gầy tóp lại, héo quắt, râu để dài như cỏ dại. Trông anh Trà, mới sau ba tháng không gặp lại, già đi cả mươi tuổi.
- Mời các bạn vào quán chơi một chốc đã.– Anh Trà mỉm cười tỏ thiện cảm –.
Nam ngập ngừng, nhìn trời, vừa sợ cơn mưa chiều thường thấy vào mùa này, vừa muốn thuyết phục anh lần cuối. Nam quay mặt lại hỏi chúng tôi. Hoán đang chở Huyện, cười:
- Thì vào một chốc. Càng mưa càng có kỉ niệm, sợ gì!
Sáu anh em ngồi trên hai băng ghế gỗ của ông cử Trà sửa xe đạp còn có biệt danh là Trà-Rơ-mác. Với tay lấy ấm nước, anh rót ra ba cái chén sứ sứt quai. Anh bước tới tủ kẹo bánh, thuốc lá. Kẹo, bánh mời khách được đựng trên nắp của cái thẩu thủy tinh. Anh Trà mở gói thuốc 475 đặt bên cạnh.
- Anh Trà cố gắng giữ sức khỏe chứ.– Nam nói –.
- Cảm ơn.– Bất giác anh sờ râu mép –. Các bạn được về phép, thích nhỉ! Cho tôi gửi lời thăm gia đình.
Lát sau, cố nén sự sốt ruột, tôi gạt qua những câu bâng quơ, vớ vẩn để nói:
- Anh Trà có nhớ chuyến xe từ Đà Lạt về Công không? Tôi vẫn nhớ “Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh” của E-rich Ma-ri-a Rơ-mác (Erich Maria Remarque), cuốn sách anh đọc trên xe, cả cuốn anh rất thích, “Một thời để yêu, một thời để chết”.
Anh Trà hơi thẹn thùng. Lúng túng mấy giây, anh cười chữa thẹn:
- Vâng, nhớ chứ. Có điều, cuộc sống ở Đức khác Việt Nam mình bây giờ. Chiến tranh đã khác, hậu chiến cũng khác. Ý tôi nói cả mấy cuốn Rơ-mác viết về Thế chiến hai, về các năm sau khi Đức bị chia cắt … so với thời điểm này … Như thầy giáo Nam hôm ở suối đá có nói, tôi cảm ơn, cố sống tích cực, nhưng ai cho mình tích cực mà tích cực!– Anh Trà nhếch mép cười –.
Có lẽ anh bất chợt nhớ AQ., Chí Phèo của Lỗ Tấn và Nam Cao với một nỗi cay đắng, tự biếm nhẽ quá thậm tệ?
- Ý em muốn nói là anh Trà cần xem đứa bé còn phôi nay đã thành thai gần ra đời, trong bụng chị Xinh, giọt máu của anh, như một Con Người cần được yêu thương, trân trọng, để nó sẽ là Con Người chân chính.– Nam chậm rãi nói sau phút trấn tĩnh –. Bây giờ, anh Trà ạ, em xin thêm một ý về cuốn sách nọ, “Một thời để yêu, một thời để chết”… Người lính phát xít trong phút thức tỉnh đã mở cửa kho để giải thoát cho những nông dân Nga yêu nước. Anh ta đã chết bởi loạt đạn của họ bên những đóa hoa dại có nhụy hồng trong đám cỏ gần đấy. Có người trách những nông dân du kích Nga lấy oán trả ân, trách anh lính phát xít Đức biết khoan hồng nhưng thiếu cẩn trọng, cảnh giác, nhưng vẫn có người bảo anh lính phát xít Đức đã tự sát bằng cách đó, vì lương tâm thức tỉnh. Còn câu chuyện của chúng ta ở đây tất nhiên không dính líu gì với cuốn tiểu thuyết ấy, chỉ có một liên tưởng nhỏ, nhân tiện mà liên tưởng, tuy khiên cưỡng nhưng cũng vui vui. Đó là liên tưởng nghịch. Em nghĩ,– Nam lại nhìn anh ấy –, anh Trà hãy sống, sống đẹp trước bào thai chị Xinh mang, sắp sinh nở. Vâng, anh Trà à, mong anh Trà sẽ sống, sống đẹp trước đứa con của anh. Đứa bé ấy sẽ là đóa hồng cứu sống anh, khát vọng hòa bình, nhân bản của anh. Sự thật lịch sử về “phù Lê”, “tả đạo” với hai tên phản quốc tiêu biểu là Tạ Văn Phụng, Trần Lục ở Bắc Kì thời Tự Đức – Hàm Nghi, sự thật về chế độ ngụy, “tả đạo” Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu ở Miền Nam, anh đã nhận thức rõ, và đã từ bỏ, em không nói tới nữa. Em chỉ nói khát vọng hòa bình, nhân bản (lấy con người trần gian làm gốc). Khát vọng ấy sẽ gặp lí tưởng của cách mạng vô sản, em tin vậy. Còn cuộc đời, nó cứ bước đi với các bước của lịch sử, chúng ta chỉ là những thành tố nhỏ thôi mà. Đã lỡ một thời để yêu, nên có một thời để sống! Để sống, anh Trà ạ.
- Vâng …– Anh Trà run run môi –.
Nam và chúng tôi mừng rỡ. Lộc Biếc hỏi ngay:
- Thật không, như vậy chứ, anh Trà?
- Vâng …– anh Trà nhìn lãng –.
Tôi hơi thất vọng vì âm sắc tiếng “vâng” của anh có vẻ miễn cưỡng, qua chuyện.
- Sao anh không quý hạnh phúc, quý tình yêu cuộc sống nhỉ! – Nam bần thần, hẳn cũng thất vọng –.
Đang cúi đầu, anh Trà ngẩng mặt:
- Tôi từ bỏ đứa bé đang còn là bào thai, cũng có nghĩa, tôi từ bỏ lương tâm, trách nhiệm của tôi (một kẻ chính là cha đẻ của nó). Tôi hiểu chứ. Nhưng các bạn cũng hiểu suy nghĩ của tôi rồi mà …– Giọng Bắc cố nặng âm địa phương của cố hương hơi nhòe đi –.
Đôi môi dưới và trên các sợi râu tua tủa của anh Trà hơi méo đi vì xúc động.
Nam không biết nói sao, chỉ cúi đầu rồi nhìn anh Trà:
- Cuộc sống sẽ khác đi. “Sau cơn mưa, trời lại sáng”, một câu ngạn ngữ hay tục ngữ gì đó đã khuyên bảo mọi người về niềm hi vọng như thế. Chẳng lẽ cứ lí lịch gia thế mấy đời, mấy họ mãi. Hiến pháp cộng hòa xã hội chủ nghĩa nước ta chẳng quy định mọi người đều bình đẳng về mọi nghĩa vụ và quyền lợi đó sao!
Nói thêm vài điều với nhau, chúng tôi chào anh Trà. Bẻ một nhánh cây khô nhặt được trên đường, tôi gạt bớt lớp bùn bám vào bánh xe và vè xe đạp. Nam, Huyện cũng thế.
- Hãy tin vào sức mạnh của lòng nhân hậu, anh Trà ạ.– Nam lại nói –. Không người Việt Nam nào cứu nhau bằng lòng thù hận. Người Việt Nam giải phóng nhau bằng lòng nhân hậu. Nghèo lòng nhân hậu sẽ không tự cứu được bản thân mỗi người, bất kì ai cũng thế.
Chúng tôi lại nghe anh Trà nói “vâng”.
Nhìn trời, sợ cơn mưa ập tới, chúng tôi chào anh Trà, cử nhân triết học, cựu sĩ quan đào binh, cũng là anh thợ sửa xe đạp, bán quà vặt!
Đạp xe qua doanh trại bộ đội, chúng tôi lại chào một vài người lính quen biết đang đánh bóng chuyền trong đó.
Tới ngã ba Đa Rai, thấy trên chiếc xe lam có nhiều cô giáo đang ngồi chờ khởi hành (Nghệ, anh Quỳnh, anh Giảng đã ra Đa Công hồi sáng). Tôi lại gặp K’Vinh, một anh lai Hy Lạp đang là giáo viên ở Bảo Thắng, tình cờ một hôm tôi quen. Chúng tôi chào nhau với những câu hỏi thân mật.
Tôi không ngờ em Hộ đã đợi sẵn ở ngã ba này để tiễn chân chúng tôi. Hộ nhìn thầy giáo Huyện với đôi mắt đỏ hoe.
- Sang năm em học lại lớp chín. Thầy còn dạy chúng em không?– Hộ hỏi thầy giáo Huyện, người thầy đã phục thiện –.
- Chưa biết thế nào, tùy Phòng và Ty Giáo dục, Hộ à. Dẫu sao đi nữa, hãy cố gắng học tập, tu dưỡng nghe Hộ!– Huyện đặt tay lên vai Hộ, nói khẽ với em, trong khi Hộ khóc, đôi bàn tay chai sần của em run mềm nắm tay cô giáo Lộc Biếc, người đã tận tâm yêu thương, phục hồi cho em lòng tự trọng –.
Đạp xe ra Đa Công, dọc đường, Ka Kring nói sau lưng tôi, bồi hồi:
- Sao em yêu nghề giáo dục quá, anh Khoai ạ.
Tôi cũng nghĩ không khác Ka Kring.
Hai bên đường, bạt ngàn các đồi trà tươi lên sau những cơn mưa đầu mùa. Những ngọn cỏ mọc xen với trà đâm vào tâm hồn nông dân của tôi buốt nhói như các ngọn cỏ lúa ở quê nhà Thuận Xá, Quảng Trị xa lăng lắc. Cỏ ơi, hãy mọc đúng chỗ nào! Trà ơi, xanh lên những chồi lá tơ non ngọt chát đi nào! Tôi liên tưởng nghịch đến anh Trà. Anh Trà không phải là bạt ngàn trà trải khắp bao ngọn đồi kia. Là người đau đáu khát vọng được bình đẳng, anh Trà có ngọn lá biếc nào trong lương tâm, lương tri anh không, trước vòm bụng mang đứa con máu thịt anh với chị Xinh, nói như Nam, khác Rơ-mác, là đóa hồng sự sống? Tôi tin đóa hồng ấy đã sáng bừng trong tâm anh Trà, sống lại trái tim anh …
- Phải vậy không Ka Kring?– Tôi buột miệng –.
Ka Kring ngơ ngác:
- Phải gì, anh Khoai?
Tôi cười, chợt nhớ mình vừa buột miệng bất giác:
- “Sau cơn mưa, trời lại sáng” ấy mà.
- Đừng mưa, ướt hết. Em mong trời sẽ mưa thuận gió hòa vào đêm nay, sau khi mình đã đến nơi, dạo quanh Đa Công và ăn tối. – Ka Kring thực tế nói –. Lúc đó, mặc mưa với bóng đêm ngoài trời, chúng ta sẽ đóng cửa kính, hát hò, uống trà. Sáu anh em, trên một căn gác ấm cúng ở nhà em. Cuộc đời bao giờ cũng dễ thương thì tốt hơn.
Chúng tôi dắt xe lên dốc rồi thả xe xuống dốc, với tay phanh hờ sẵn, cho hai cặp má phanh rà rà vào hai vành xe.
Dọc đường, tôi lại xúc động biết bao khi nghe Ka Kring bảo:
- Chị Lộc Biếc đã cứu cả Hộ, cả Nhi, cả anh Huyện đấy, anh Khoai à. Và ông Mộ, sau một cuộc xung đột dữ dội với Hộ, ông già huấn nhục man rợ ấy đã nghe ra lẽ phải. Lẽ phải đã được Hộ sử dụng để đấu tranh, thuyết phục ông thân sinh của nó. Hộ thắng lợi! Cũng hay chứ, anh Khoai? Đấy là tính biện chứng, quá trình tác động qua lại, trong quan hệ lí lịch, phải không anh Khoai?
Mặc dù đã biết, tôi vẫn nghẹn ngào một lúc mới nói được:
- Trong các quan hệ xã hội khác cũng thế … Anh cũng yêu nghiệp giáo dục quá, Ka Kring ạ. Không có gì đẹp hơn khát vọng làm “y sư của tâm hồn”.
44
Đêm Đa Công, cuối năm học ấy.
Cuối tháng năm theo lịch mặt trời, khi các rẫy nương đang đâm chồi vào mùa một cách náo nức, ở Đa Công, xã huyện lị, chúng tôi quen gọi với một chút mơ ước là thị trấn, lại vắng khách xa đi chợ. Chợ huyện với các phố chợ buổi chiều hôm tẻ ngắt nhưng vẫn xôn xao đối với những người từ nông thôn về như chúng tôi. Mua một ít quà, chủ yếu là trà hương ngâu, đặc sản của quốc doanh, ở các cửa hàng quốc doanh huyện lị Đa Công, loại trà không nơi nào sánh được theo nhận xét của Lộc Biếc, và cũng đã chào ba mạ Hoán, chúng tôi về nhà Ka Kring.
Đó là ngôi nhà nhỏ của ông bà ngoại Ka Kring, nay gửi lại cho một gia đình người Bắc di cư. Người cha ruột Chiau Mạa của Ka Kring thỉnh thoảng ghé thăm con gái ở đây, những năm cô còn học tiểu học, trung học, và các dịp hè thời Ka Kring theo Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt. Ngôi nhà được xây kiểu xưa, vách dày, có căn gác gỗ, lợp ngói, nằm giữa khu vườn gồm các loại cây bơ, sầu riêng, mít và cà phê.
Ba mẹ nuôi người Bắc di cư đã già. Những người con của họ đã ra riêng, ở đâu dưới Đa Tiến, Đa Châu.
Chúng tôi, cả Hoán nữa, bước lên căn gác gỗ tối om và ẩm sau bữa cơm tối. Bật ngọn đèn ống trắng, Ka Kring mở các cánh cửa kép, một lá sách bên ngoài, một lồng kính trong. Chúng tôi ngơ ngác khi ngắm các khung ảnh đã quá cũ, nước thuốc trên ảnh đã lỗ chỗ các đốm loang lỗ, trắng mốc, ghi hình những cụ ông, cụ bà, ông bà, cha mẹ của Ka Kring. Các vị hầu hết là chiến sĩ quốc tế vô sản, và một, hai người trong họ chỉ là thường dân. Lâu nay, Nam cứ ngỡ Ka Kring vờ hoang tưởng về nguồn gốc xuất thân. Bây giờ, qua một số cuốn lưu ảnh, gương mặt họ với cờ Quốc tế Cộng sản, chân dung các lãnh tụ vô sản thế giới làm phông, chụp ở nhiều nước, cùng các khung ảnh trên vách kia, anh đã hơi tin.
Ka Kring còn đưa mấy xấp thư của mẹ cô từ Thụy Điển gửi về, bức viết bằng tiếng Việt, bức bằng tiếng Anh cho Nam đọc. Những tờ thư vàng ố lẫn mới tinh. Đó là những bức thư viết bằng ngoại ngữ của mẹ cô, với các từ ngữ thông dụng, chả qua Ka Kring chỉ biết hai ngôn ngữ Anh, Việt ấy (và tiếng cha đẻ, Chiau Mạa). Tiếng Pháp của mẹ, cô chỉ lõm bõm.
Nhưng điều bàng hoàng nhất là các bức tranh do Ka Kring vẽ bằng sơn dầu, màu nước và mực nho!
Tôi ngồi trên chiếc ghế xa lông gỗ mun ngắm sững sờ bức tranh cô mới vẽ gần đây, trong các buổi sáng chủ nhật từ Bảo Nghĩa ra thăm nhà – bức sơn dầu Ka Kring đặt tên: Bão táp và số phận.
Chính Hoán cũng không ngờ, mặc dù Ka Kring khá quen với anh từ tấm bé. Hoán ngắm các bức ảnh cũ kĩ, mươi bức ảnh màu mới, đọc vội dăm bức thư, ngồi sững sờ ngắm tranh như tôi. Không hỏi, nhưng mọi người đều biết chừng, qua bao dâu bể của lịch sử, thư và ảnh vẫn còn bởi không ai ngờ ông Tây, mang hai dòng máu thuộc hệ gần nhất là Nga và Pháp, có bà vợ Tàu lai Nhật, đi khập khiễng với cái tẩu thuốc dưới hàng ria mép rậm, bạc trắng kia lại là cộng sản từng chiến đấu ở các chiến trường tại Trung Quốc và Việt Nam. Hoán chỉ biết qua lời kể của các người già tại Đa Công, ông Tây kia vì tàn tật nên chỉ sống đạm bạc, chẳng kinh doanh gì, chẳng có nhiều mẫu trà như các ông Tây khác.
Tôi ngồi đó chừng đến mươi phút trong cảm xúc đến mức rợn gai ốc về bức tranh của cô giáo lai Ka Kring, bức mới vẽ. Không ai khác, đó là các gương mặt của chúng tôi, có cả ông Binh, cả anh Trà. Ka Kring có trí nhớ khá tinh về diện mạo mỗi người cô hiểu. Những gương mặt bị quay cuốn trong bão táp dữ dội nhưng ngấm ngầm của lịch sử. Lá và hoa vẫn xanh, vẫn thắm trong các luồng gió xoáy mãnh liệt!
Đúng như Ka Kring ước, mưa bỗng rơi xối xả ngoài bóng đêm, trên cây lá quanh nhà, sau các khung cửa kính. Mưa vào mùa! Xôn xao. Náo nức. Chúng tôi nghe tiếng tụng kinh của hai vợ chồng già trước bàn thờ Phật Thích Ca bên dưới. Hình như đây là tuần kinh kệ mỗi tối. Tiếng tụng niệm già nua với tiếng chuông ngân rung, thanh thoát, tiếng mõ trầm đục, khô nặng, trong hương nhang phảng phất lẫn với tiếng mưa đêm, vang vọng.
Ka Kring lặng lẽ pha trà. Cô lại cắm những cây nến hồng, nến trắng vào ba chiếc dĩa lớn, dễ chừng hơn mười cây, đặt trên bàn nước, đặt giữa sàn gỗ và đặt trước một tủ sách. Cách phối trí nến, sau khi tắt đèn ống trắng, tạo nên một không gian ảo giác, vừa cổ kính, vừa hoang đường.
Chúng tôi hầu như không ai nói gì cả một lúc rất lâu. Bất giác, tôi nghĩ, chẳng lẽ Ka Kring đang thiết kế một sân khấu, mà những bức ảnh về những chiến sĩ quốc tế cộng sản kia, bức tranh “Bão táp và số phận” kia, những bức thư, tập ảnh của bà mẹ tóc vàng ở Thụy Điển kia, và cả những lời cô thuật sự nữa, chỉ là những gì tạo nên không khí, phông màn, bối cảnh. Nhất là khi các dĩa nến hồng, nến trắng được thắp lên, rõ ràng chúng tôi đang hiện diện một cách bất ngờ trên một sân khấu. Tôi sực nhớ đã đọc và xem ở đâu đó những trang sách, đoạn phim phản ánh, thể hiện những dạ hội hóa trang, những đêm diễn xuất thi ca.
Tôi đảo mắt tìm xem hình tượng cây thập giá và lưỡi gươm (47), hoặc chính xác hơn, hình tượng cây thập giá và khẩu súng thực dân, đế quốc, ở đâu trong căn gác gỗ đã trở thành không gian suy ngẫm này, nhưng chẳng thấy. Hẳn Ka Kring cảm thấy, ai cũng đã biết quá rõ rồi, nên ở đây không cần nói đến tác nhân kinh khiếp gây nên bão táp và số phận suốt một trăm mười bảy năm (1858 – 1975) và những năm chiến tranh biên giới hiện tại …
Ka Kring thấy im ắng quá, cô muốn đêm chia tay này có chút không khí thơ. Cô nói về bức tranh mới vẽ – bức cô định đặt tên: Nỗi đau chiến tranh, nhưng sau đó đã tạm đặt lại: Bão táp và số phận. Cô nói, trong không gian lung linh ánh nến, khi tuần kinh kệ đã dứt nhưng mùi hương trầm còn thoang thoảng, khi tiếng mưa rơi ngoài vườn đều hạt, về suy tưởng, tâm trạng cô muốn thể hiện vào tranh. Cô không cho là mới, mới gì đâu khi vẽ lại tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, khát vọng hòa bình, độc lập, tự do, khát vọng sống cho ra sống với một lẽ sống hướng thượng. Cô không cho là mới, mới gì đâu ý định thể hiện nỗi đau của những con người cô thương mến. Mới gì đâu khi muốn ghi lại khát vọng, nỗi đau hiện thực ấy, không phải để khơi dậy hận thù chiến tranh, hận thù sắc tộc, hận thù tôn giáo, ý hệ, giai cấp, mà để loài người, mỗi con người nhân hậu hơn, bởi quá khứ lẫn hiện tại được nghiền ngẫm và tái hiện. Đấy là tâm sử của cô từ cảm nhận cuộc sống này, Đa Công này, Bảo Nghĩa này với bao bạn bè từ nhiều miền Tổ quốc đến. Cô nói như một thi sĩ.
Chúng tôi không biết nói gì, chỉ bàng hoàng xúc động, lắng nghe. Tôi vẫn thấy một Ka Kring cũ xưa nhưng mới mẻ một cách táo bạo … Bấy giờ, nhãn quan, thái độ lắm người bị nhiễm nặng chủ nghĩa Mao, với cách tư duy đóng khung và đúc khuôn cứng nhắc trong khái niệm đấu tranh giai cấp (bất cứ cái gì cũng được “dịch” là biểu hiện đấu tranh giai cấp, ngay cả việc đánh giặc, cứu nước). Người ta có thể phê phán Ka Kring đã rơi vào hố bùn của triết thuyết siêu giai cấp, tính người chung chung!
Dẫu sao, đó cũng nỗi niềm chân thành của Ka Kring!
Sau một vài bài thơ, trong đó có thơ Phùng Quán, Trần Quang Long, là một vài bài hát, trong đó có “Sơn nữ ca” của Trần Hoàn (Nam đã mạn phép đặt thêm lời hai, ngọt ngào, nồng ấm, hạnh phúc). Tôi nghĩ lời hai ấy như một lời cầu chúc, ước vọng của Nam dành cho Ka Kring, cô giáo lai xinh đẹp, mực thước, mới, lạ và nghệ sĩ. Có phải đó là lời hứa hẹn giữa Nam và Ka Kring?
Trong một thoáng nào đó, tôi lén nhìn Lộc Biếc trong ánh nến lung linh. Tôi yêu Lộc Biếc da diết với nỗi buồn lặng lẽ.
Đêm ấy, sau khi Lộc Biếc, Ka Kring xuống nhà dưới đi ngủ, tôi nằm cạnh Nam, Hoán và Huyện, dưới tấm chăn bông nhẹ tưng có mùi ẩm mốc. Tôi thao thức mãi. Tôi ôn lại những chặng đường rời làng quê Thuận Xá, Quảng Trị vào Huế, rồi lên Đà Lạt nhận nhiệm sở, bến xe Đà Lạt một sáng sớm có Lộc Biếc, Khúc Văn và hoa diếp vàng trên vách ta luy đá, chuyến lên Đà Lạt lần thứ hai với Nam, những ngày Bảo Nghĩa, cái Tết thành phố Hồ Chí Minh, những ngày có Ka Kring về trường, lại hình dung những chặng đường về lại quê nhà, chỉ ngàn cây số nhưng bao nhiêu vất vả với các tàu, xe rệu rã, các bến xe, bến tàu chật ních người, hôi hám, nhếch nhác. Tôi nhớ cha mẹ, nhớ các em tôi, bà con ruột thịt ở làng quê, “đất không nuôi nổi người, người không nuôi nổi đất” (41) ấy. Nỗi nhớ mênh mang, nỗi nhớ thâm thiết và tiếng mưa, tiếng gió xào xạc dìm giấc ngủ tôi vào khuya, nâng sự bừng thức của tôi trong ánh xanh hồng của nền trời sắp hé rạng.
Tôi tỉnh giấc, nhìn ra cửa sổ, trong tiếng đọc thơ của Nam, lại là bài NGÔI TRƯỜNG THÁNG GIÊNG. Tôi vẫn nằm im, mở mắt nhìn ánh nến hắt vào vách tường, nơi treo những ảnh, những tranh. Nam lại nói, hình như với riêng Lộc Biếc: “Phải có những năm gian khổ thế này để chúng mình tự tin hơn trong các bài giảng, thây mặc những ai vun quén cá nhân”. Tôi tỉnh hẳn, trỗi dậy, xếp lại chăn, cuốn lại chiếu. Ba dĩa nến trên bàn lung linh, sáng rỡ. Hóa ra các bạn đã dậy từ lâu. Tôi ngỡ chưa hề có giấc ngủ với đêm tối, vì nến vẫn chưa lụn, vẫn như đang là buổi tối đầu đêm hôm qua. Tôi xấu hổ xuống nhà sau, đánh răng, rửa mặt. Có lẽ do tôi thao thức quá khuya nên ngủ mê man, dậy muộn.
Chúng tôi lại chào hai vợ chồng già đang mang áo thụng lam chuẩn bị tuần kinh kệ sớm. Trong khi ra cửa, lúc này tôi mới thoáng thấy chân dung Bác Hồ cùng Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ trên vách, một chân dung khác trên cửa ra vào – Trần Hưng Đạo.
Ra nhà ngang, Ka Kring mở cửa cho tôi, Nam và Hoán lấy xe đạp. Trời còn tối mịt, nền trời he hé ánh hồng, đất ướt, cây lá còn đẫm mưa, lành lạnh.
Đến bến xe Đa Công, Hoán vào mua vé với ba chúng tôi, để Lộc Biếc nói chuyện với Ka Kring trong những phút sắp chia tay.
Bên cốc cà phê uống vội, tôi thấy Ka Kring nhìn Nam đam đắm, hồn hậu, với một tình yêu trong sáng, chân thành và công nhiên. Nhưng Nam, cũng như tránh đèo Ka Kring, Nam lại tránh nhìn ánh mắt cô!
Chúng tôi năn nỉ Lộc Biếc cầm giúp chút quà mọn về biếu gia đình.
Đưa Lộc Biếc lên xe về thành phố Hồ Chí Minh trước, tôi cố gắng nói được một câu, như một học trò không thuộc được bài:
- Nghỉ phép một tháng thôi, tháng sau gặp lại nhé.
Lộc Biếc mỉm cười, gật đầu. Thuận miệng, tôi nói thêm:
- Cho gửi lời thăm hai chú thím, Thủ, Thuận cùng Hoàng Lan, Hoa Hồng, cả Tiệp nữa nhé.
Lộc Biếc lại mỉm cười, gật đầu. Cô cũng gửi lời thăm ba gia đình ba mẹ chúng tôi ở Huế, ở Quảng Trị như vậy. Chúng tôi lại chúc Hoán đỗ vào kì thi tuyển sắp tới.
Hoán vẫn đứng bên cạnh xe của Lộc Biếc, còn Ka Kring bước tới chiếc xe về Nha Trang, chiếc ba anh em chúng tôi sẽ đi (về Nha Trang rồi mới mua vé xe hoặc tàu ra Huế, Quảng Trị được). Hai chiếc xe đạp của tôi, của Nam đã gửi nhờ Hoán, Ka Kring dắt về nhà Hoán gần đó, đang dựng kề anh.
Khi tôi và Huyện đã lên xe ngồi, Nam vẫn còn đứng bên cạnh Ka Kring dưới đất. Chiếc váy thổ cẩm hôm nay Ka Kring mặc cũng vẫn cùng màu, cùng vải với áo và mũ: màu đen, làm nổi bật làn da trắng hồng của cô. Lọn tóc bối tó của cô vẫn để lộ chiếc gáy trắng tròn xinh đẹp. Nam, với chiếc mũ kép pi xám tro, áo bỏ vào thùng quần, đôi dép lốp quai vải sợi ni lông bắt chéo. Cả hai trông rất đẹp đôi. Huyện bấm khẽ vào vế của tôi, cười khẽ. Tôi mong cuộc sống trần gian này cứ dễ thương như Ka Kring ước.
Trời hửng sáng, tiếng loa điều phối gióng giả, rè rè. Người phụ lái giục khách lên xe. Lúc Ka Kring đứng bên cạnh cửa sổ của xe, tôi thấy đôi mắt màu nâu trong vắt của cô đỏ hoe, chảy tràn nước mắt trên hai gò má phơn phớt những chấm tàn nhang nhạt màu. Nam cũng rưng rưng, nghẹn ngào. Rồi xe rồ máy, chầm chậm lăn bánh. Tôi mải nhìn theo xe Lộc Biếc chạy phía trước. Tôi nghe loáng thoáng tiếng Ka Kring. Và tiếng Nam rất rõ, nhưng tôi không hiểu gì cả! Chẳng lẽ chỉ là đồng nghiệp, đồng chí, là tình bạn sâu đậm thôi sao! Chẳng lẽ lời hứa hẹn thuộc về nghìn vạn năm sau! Yêu nhau, phải bình đẳng nhân phận trong sự bình đẳng chung? Tôi và Huyện chỉ biết để mặc cho Nam chảy ràn nước mắt, khi xe lăn bánh khá xa, khuất dần bóng dáng Ka Kring (một cô gái lai cụ thể, đâu phải là biểu tượng!). Đến bao giờ, đến bao giờ mới bình đẳng tuyệt đối giữa các quốc gia, nhân tộc, chủng tộc, để bi kịch “tình yêu đương và màu da” (48) không còn nữa? Nam như một người đã chết. Bàn tay vẫy của tôi cơ hồ cũng chết cứng trong gió sớm. Nam ơi, sơn nữ hiện thân của dòng suối Đạ Nga ơi! Tôi lay Nam, ngỡ đang lay một cái xác bất động.
Đến ngã ba Phuốc, tôi mới chợt tỉnh, lắng lại chút xúc động bàng hoàng, một xúc động chẳng hiểu sao lại vượt quá thực tại!
Lộc Biếc đang ngồi trên chiếc xe ngược chiều, hẳn lúc này đã ra khỏi những khúc phố huyện lị, nhưng đã chiếm lĩnh cả tâm hồn tôi, một tâm hồn vừa qua cơn rồ dại!
Xe vẫn băng băng qua những đồi trà trong nắng ban mai. Tôi thở dài. Có lẽ tình cảm đơn phương trong trái tim tôi đã quá ngưỡng nên trở thành lố bịch! Tôi buồn rầu mỉm cười một mình khi thấy mình chưa hề có một người yêu nào cả, chỉ là tình thầm, riêng một mình tôi đắm say, đau đớn.
- Những gã làm thơ đều vớ vẩn cả, Khoai à!
Tôi chợt nghe Nam phàn nàn sau tiếng thở như nấc. Tôi biết Nam tự trào một cách thành khẩn. Sao tôi không nghiên cứu toán học với niềm đam mê như với văn chương?– Câu nói của Nam khiến tôi tự hỏi –. Tôi thấy Huyện mỉm cười.
Xe vẫn bon bon qua các đồi trà xanh lóng lánh, các thửa đất tươi màu đang “bung ra”, nẩy bật chồi từ bao hạt bắp mới gieo như muôn ngàn cây bút. Tôi lại nhớ đến chiếc đũa bị gãy ở bàn học sinh tại chái đầu hồi nhà tập thể trường Bảo Nghĩa, chiếc đũa Huyện đã chua xót bẽ gãy một cách bất giác. Tôi xòe ra trước mặt bàn tay của mình. Cũng vô thức, tôi co lại ba ngón, để ngón trỏ và ngón giữa mở ra hình chữ V. Đó là hai, Lộc Biếc và Ka Kring. Đó vẫn là năm chúng tôi … Đó cũng là chiến thắng của Việt Nam (VN.’s Victory) … Tôi lại liên tưởng quá xa, quá rộng, với một cảm xúc như cảm xúc trước câu chúc của Nam gửi lại cho Ka Kring trong phút chia tay cuối cùng! Một xúc động vượt quá thực tại, như thể nhìn ngắm một cụm mây trắng sáng ngoài khung cửa xe, tôi tưởng như thấy cả bầu trời. Nhưng dẫu sao cũng như cụm mây kia, cả bầu trời Tây Nguyên đang rực nắng thật.
Nhìn mông lung, chìm vào suy ngẫm một lúc khá lâu, tôi lại nói một cách bâng quơ, vớ vẩn, không phải để động viên Huyện lúc này, tuy điều muốn nói lạiï bao ngày da diết trong tôi:
- Một niên khóa dạy học, buồn cười thật đấy, bởi phát hiện ra anh em giáo viên mình còn qua kém về thực tiễn sản xuất, lao động nơi này … Cả hồn, cả xác chưa ra gì!
Tôi thấy bàn tay đã lơi lỏng của tôi bất giác lại mở ra hình chữ V như hồi nãy, cơ hồ chẳng thể khác được. Tôi mỉm cười:
- Huyện à, chính khoa học thực nghiệm, cụ thể là hóa dược của ông, sẽ cứu rỗi tình yêu đương, cứu rỗi Con Người, nỗi đau màu da … cứu lấy tương lai … Và vật lí, sinh học … Đúng vậy, “khoa học – kĩ thuật là then chốt”.
Cùng một trường cảm xúc, Huyện nắm lấy bàn tay tôi, nét mặt chưa bao giờ bày tỏ niềm chấn động sâu và mạnh đến thế. Huyện không cho tôi phi thực tế, rồ dại!
Nam cũng nắm chặt bàn tay năm ngón, có hai ngón đang mở ra hình chữ V của tôi, cười rạng rỡ, rân rấn nước mắt.
Có ai nghĩ ba anh em chúng tôi đang chơi trò con nít buồn cười không? Lúc này, tâm trạng tôi quá đỗi ngổn ngang!
Chiếc xe khách cũ kĩ vẫn chạy trên quốc lộ Hai mươi loang loáng nắng. Tôi ngỡ đang nao nức chèo ghe đua thuyền trên làn nước yêu thương xa lắc, tuy hiện giờ ba chúng tôi ngồi bên nhau lặng lẽ trên xe.
Đó là buổi sáng nơi bến xe Đa Công và trên chuyến xe về Nha Trang năm ấy. Năm ấy đến năm nay, đã gần trọn hai mươi năm, ngỡ trong một chớp mắt!
Trong chớp mắt đó, nổi rõ lên trên nền kí ức một hình ảnh từ câu tục ngữ nghìn xưa, “năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn”, cũng từ câu thơ của một nhà thơ, “như năm ngón tay trên một bàn tay”, càng khắc sâu hơn bức tranh về những gương mặt trong bão táp cách mạng, hoa vẫn thắm, lá vẫn xanh trong bão táp đó – bức tranh của Ka Kring. Bức tranh ấy mãi còn ở trong sâu thẳm tim tôi. Tôi áp bàn tay mình lên lồng ngực mỗi khi hồi tưởng như lúc viết những dòng chữ này.
45
Và làm sao tôi quên được buổi xế chiều trên bờ sông Nhùng, Quảng Trị quê hương, năm ấy.
Về đến làng Thuận Xá quê nhà, tôi phải thay chân xã viên của mẹ để bước vào vụ gặt. Hai bàn tay lại chai rát, đôi vai lại mỏi ê ẩm. Khi bao hạt lúa mới đã phơi vàng trên sân hợp tác xã, tôi vui sướng lãnh phần chăn ba con trâu cày của đội sản xuất thay cha, để sống lại những năm thơ ấu giữa cánh đồng trơ gốc rạ, hai bên quốc lộ cũ đã bỏ phế từ lâu, cỏ mọc cằn cỗi.
Một tay cầm cuốn tiểu thuyết đang đọc dở, một tay cầm chiếc roi hóp mỡ, tôi cho trâu bơi qua sông Nhùng trong nắng xế chiều. Ngồi trên lưng trâu, hai chân thả vào nước mát, thật thú vị.
Ở bến nước, sau khi tắm xong, ngồi trên bậc cấp có lót mấy phiến đá xanh, tôi ngắm trâu dầm mình, quất đuôi vọc nước, đuổi dăm con nhặng cứ chờn vờn trên lưng chúng.
Tôi nghe có tiếng động phía sau, vội quay mặt lại. Nam! Nam đang dựng xe đạp bên khóm dứa dại, nét mặt hết sức thảng thốt. Tôi đứng dậy, chưa kịp hỏi Nam, anh đã kéo tay tôi cùng ngồi xuống bậc bến.
Nắng chiều đỏ ối trên mặt sông, hắt lên gương mặt Nam đang đau đớn, bàng hoàng. Nam không nói gì cả, rút từ túi áo ra một mảnh giấy gấp tư. Một bức điện tín!
Mở vội ra để đọc, tôi sững sờ:
“Ka Kring về quê cha ở Đạ Ân, đã bị FULRO. bắn chết vào tối 15.06 vừa rồi. Đã mai táng tại mảnh vườn nhà cô ấy. Hoán”.
Tôi lặng người, đọc ba dòng chữ của bưu điện đến mấy lần cũng không rõ.
Hai dòng nước mắt của Nam ròng chảy. Nam úp mặt vào hai tay, nấc lên, rồi òa khóc với tiếng khóc Nam cố bưng lại bằng những ngón tay run rẩy.
Tôi cũng không thể không khóc. Hình ảnh cô gái lai Ka Kring xinh đẹp, dễ thương, thông minh, sâu sắc, tài hoa bỗng chói sáng trong niềm tưởng tiếc. Trong hoài niệm của tôi, Ka Kring vẫn hát bài ca hôm nào ngập ánh trăng B’Kẽh! Sao cô lại tha thiết, tin yêu cất giọng giữa vòng tay của những người bạn lai thuở cấp một, cấp hai ở làng Đường Đàn quê Nam, dưới mái trường thời tuổi nhỏ của anh và tôi! Sao Ka Kring lại ngời sáng như cô đang còn sống giữa vài ba gương mặt đậm nét Ma-rốc (Maroc), Pháp, Trung Hoa, mãi còn hồn nhiên nơi lí ức tôi! Những bạn lai ấy trong thời tấm bé của chúng tôi cô nào có dịp gặp gỡ, cũng không bao giờ còn dịp về làng Đường Đàn của Nam để chuyện trò rồi thân quen như bà con, ruột thịt!
Tôi biết nói gì, cũng chẳng thể nói được gì với Nam lúc này. Nam Tây Nguyên K’Hor, Châu Mạ đã cho cô một dòng máu, nuôi dạy cô khôn lớn và đã bắn chết cô, người con gái có tên Ka Kring của chính Nam Tây Nguyên K’Hor, Chiau Mạa.
Tôi khóc, lau nước mắt mặn chát, rồi nước mắt lại chảy tràn. Ba con trâu vẫn vô tư nhơi lại cỏ trong làn nước đã sẫm chiều, nhòa đi trước mắt tôi.
- Mình sẽ vào Đa Công ngay sớm mai.– Nam chợt nói, giọng nghẹn ngào –.
Tôi quay lại nhìn Nam, giọng tôi cũng nằng nặng:
- Dẫu sao cũng muộn rồi, Nam à. Đợi mươi ngày nữa, hai đứa mình cùng vào?
Nam lắc đầu, thở dài não nuột:
- Mình phải vào trước, chỉ để thắp cho Ka Kring một nén nhang. Ừ, thì rõ là đã muộn …
Khi dắt trâu về chuồng, trên đường làng đã nhập nhoạng tối, tim tôi bỗng lóe lên một hi vọng. Tôi nói với Nam, trong chớp lóe ấy:
- Biết đâu, Hoán và Ka Kring đùa Nam đấy! Đã có bao bức điện tín đùa như vậy trên đời!
Nam ớ lên như một chú bé đần độn chợt vỡ lẽ. Nam thốt ra trong tiếng cười đầy hi vọng:
- Ừ, biết đâu! Biết đâu! Mai, ngày mai, mình phải vào lại Đa Công! Biết đâu! Mình vào nhé!– Nam nắm lấy cánh tay tôi, siết chặt bằng hai bàn tay của anh –. Mình sẽ sống suốt đời với Ka Kring tại Đa Công! Cũng có thể, mươi năm sau, đủ tiêu chuẩn, chúng mình sẽ xin về thành phố Hồ Chí Minh, dạy học, làm văn nghệ, và sẽ mở một quán cà phê nho nhỏ, sẽ sinh một hai đứa con. Lớn lên, chúng học xong đại học, sẽ làm nghề cá thể nào đó …– Nam nói như thể anh đã suy nghĩ, trăn trở từ lâu, giọng hơi ríu lại vì nghẹn ngào, hi vọng –. Nhưng trên cả tình yêu đương, hạnh phúc riêng tư, vẫn là tác phẩm, tác phẩm và tác phẩm, Khoai à …– Nam nói, như thể anh ngăn chặn trước những lời can gián từ tôi –.
Và Nam nhảy lên xe đạp, đạp nhanh vào làng Đường Đàn, tưởng chừng muốn bay ngay vào Đa Công.
Tôi hiểu, anh đoán là tôi không thể không nói, nên chặn trước như thế, mặc dù Nam thừa biết tôi cũng như anh và nhiều người khác, vừa quý mến Ka Kring như một người bạn, mong muốn cho cô những điều tốt đẹp, hạnh phúc như bao người chung quanh, vừa ngần ngại những ác cảm vô thức của cộng đồng từng là nạn nhân của thực dân da trắng …
Gió nam nóng mùa hạ đã tắt từ lâu, ngọn nồm lay những tre với hóp một điệu ru êm ả, mát rượi. Con trâu bên cạnh tôi bỗng nghé ngọ trong chiều hôm tĩnh mịch làng quê.
Chính tôi, chính Nam, cùng những bạn bè khác, cũng được Ka Kring “soi sáng”. Tôi mong Ka Kring không bị bắn chết bởi Nam Tây Nguyên K’Hor, Chiau Mạa của cô bao giờ. Tôi cũng mong Ka Kring, biết đâu, đã bay qua Thụy Điển với mẹ, cô gái tóc vàng thuở nào đã chạy trốn cô đơn, ngả vào vòng tay người tài xế Chiau Mạa, nhưng đành lòng bỏ cô lại giữa cô đơn, lạc lõng! Không cô đơn, lạc lõng đâu, Ka Kring! Và đừng, Ka Kring đừng chết để khẳng định mình ở quê hương Đạ Ân với cái chết thảm khốc bởi họng súng Phuyn-rô (FULRO.) như thế! Tôi biết, Ka Kring càng sẵn sàng hơn để lao tới thách thức trước họng súng của bất kì lũ thực dân, phát xít, đế quốc, bành trướng mang màu da nào, nếu chúng trở lại, chưa từ bỏ ý đồ đen tối. Còn có bao nhiêu cách để khẳng định tư tưởng đoàn kết nội bộ dân tộc rất Việt Nam trên đất nước này! Còn có bao nhiêu cách để khẳng định lòng yêu Tổ quốc Việt Nam và riêng Tây Nguyên ruột thịt của Ka Kring! Tôi bỗng nhiên thấm thía nỗi niềm bi kịch đằng sau vẻ hồn nhiên, tự tin, tươi tắn của Ka Kring như một thức ngộ về một Con Người. Nhưng tôi vẫn hi vọng bức điện tín ấy chỉ là trò đùa của thương nhớ. Ka Kring chẳng bao giờ có ý tưởng bi đát đến vậy đâu, Nam Tây Nguyên K’Hor, Chiau Mạa cũng chẳng bao giờ tàn nhẫn với cô như thế. Cô gái lai mực thước, sâu sắc lại rất tài hoa, nghệ sĩ ấy đã sống rất dỗi bản lĩnh với một “chất thép rất tình”. Ka Kring như thế, và chỉ như thế. Tôi trách mình đang suy diễn quá đáng về cái chết của cô, nếu như bức điện tín là đúng.
Tôi bỗng dưng chán ghét biểu tượng cho vạn năm sau, nhưng lại thương mến Ka Kring, một cô gái lai cụ thể, thương mến đến vô ngần. Tôi yêu biết bao chủ nghĩa quốc tế trong sáng, không vụ lợi, không đồng hóa dân tộc, một chủ nghĩa quốc tế không hề mâu thuẫn với chủ nghĩa dân tộc, sự trường tồn của dân tộc và bản sắc dân tộc, trong tình chan hòa các nhân tộc trong nước! Tôi gọi thầm, Ka Kring, Ka Kring, lại liên tưởng đến K’Bẻo, em học sinh mắc bệnh bạch tạng của Nam và của chúng tôi, chợt nghe mình ứa tràn nước mắt …
Đột nhiên, tôi tỉnh người, nghe máu dồn lên đầu, bước chân sững lại, rồi lạnh dọc xương sống … Tôi chẳng dám đạp xe ngay vào làng Đường Đàn để nói với Nam một ý tưởng chợt lóe lên, hình thành rõ nét trong tôi, mặc dù từ lâu chúng tôi đều nhận thức được nhưng nỡ nào quả quyết … Tôi hiểu tâm thức dân tộc mình, và đến lúc này, vẫn thấy đồng bào mình hoàn toàn đúng … Vâng, cho dẫu lí lịch Ka Kring thế nào đi nữa, con cháu của Nam với cô gái lai tuyệt vời ấy, mãi đến muôn đời, vẫn là khách (ngoại kiều) trên đất nước Việt Nam ruột thịt! … Chợt nhận ra mình đang đứng sững, tôi vội rảo bước … Tôi không muốn người bạn thân thiết nhất đời tôi phải rơi vào bi kịch đau đớn nhất, bi kịch hơn mọi bi kịch trên đời này: trở thành khách trong ngôi nhà Tổ quốc! Tôi quyết đêm nay phải mượn xe đạp cho được hoặc đi bộ để vào làng Đường Đàn, nói hết với Nam mọi lẽ … Và Ka Kring ơi, có hiểu giùm tôi không … Vâng, chúng tôi chấp nhận mọi thua thiệt, nhưng làm sao chấp nhận nổi mình là khách trong vòng tay đồng bào! Xin hiểu giùm nhau, Ka Kring … Tôi phải tàn nhẫn đến độc ác để nói với Nam, rồi tùy Nam …
Hơn lúc nào hết, tôi chợt thấy rõ, cũng như ở đáy sâu trái tim Nam, ở thăm thẳm tâm thức bao dân tộc khác trên thế giới, tận trong sâu xa hồn phách tôi vẫn tồn tại một mâu thuẫn, đúng hơn, một giới hạn, giới hạn chính đáng, cho dẫu tôi chả là gì cả!
Tôi đã tự trấn tĩnh lại, chân vẫn chậm bước trên đường làng. Dưới bóng tre pheo, nắng chiều hôm dần tắt càng trở nên mờ tối. Cảm xúc về Ka Kring ngỡ như từ lồng ngực dâng lên, sáng bừng đầu óc. Tôi trở nên tỉnh táo rất bất ngờ. Trong tôi lại có những lóe chớp của suy tưởng. Duy lí. Hơi lạ thường.
Hơn bao giờ hết, lúc này tôi như một kẻ đốn ngộ. Ý tưởng tôi mênh mang rồi đọng lại ở một điểm sáng. Tôi nghĩ đến huyết hệ với mã di truyền phiêu bạt … cũng như bao loài cây cỏ hoa trái. Cây mít thân thương, ruột rà, nghe đâu lại có gốc gác là đất Ấn Độ huyền bí, chói ngời văn minh từ bao ngàn năm trước. Cây dương liễu yêu dấu rất Quảng Trị trắng cát, nghe đâu lại có quê hương nguyên thủy là châu Phi rực rỡ nắng và văn hóa cổ đại. Cũng như nhiều sản vật Việt Nam khác vốn có căn cước là châu Âu tuyết trắng, nhạt nắng và uyên bác, một loài củ ngọt ngào đã trở nên máu thịt Việt Nam, tôi được mang tên chúng, khoai lang, nghe đâu cũng có bản quán là Nam Mỹ xa xôi, đồng hương với những thổ dân da vàng Tân lục địa, phì nhiêu và phong hóa tươi đẹp (49)! Hơn lúc nào hết, tôi cảm nhận được rất rõ, thật rõ sự thiêng liêng của máu, mồ hôi, của bao khúc ca dao, dân ca, bao huyền thoại, cổ tích tự bao giờ đã được sáng tạo và mãi còn đọng lại ở bao làng quê đồng bào Việt Nam, cùng với chất đất, khí hậu, lịch sử độc đáo Việt Nam, thời gian đằng đẵng nghìn đời với sức mạnh Việt hóa vừa sôi nổi, sinh động, vừa êm ả, thầm lặng, một cách rất Việt Nam, là những gì hun đúc nên bản lĩnh, cốt cách dân tộc cho mỗi nhân phận trong năm mươi ba nhân tộc, trên đất nước Việt Nam. Hơn lúc nào hết, tôi hiểu thấu sự khác biệt giữa con người với các sản vật, sinh vật không phải con người. Con người Việt Nam, mấy ai lai với người có gốc nước ngoài! Đồng thời tôi vẫn nghĩ đến thời lượng, chất lượng, mức độ bản địa hóa, dân tộc hóa và tính thuần túy Việt Nam. Hơn lúc nào hết, tôi thấm thía hiểu rõ ý nghĩa của hai chữ Việt Nam bằng chính lịch sử dân tộc: Năm mươi ba nhân tộc từ nhiều nguồn đã cao vượt hơn người về nhân văn, đã vượt (Việt) núi rừng, biển cả để đến xứ sở phương nam, Phù Nam (Nam), rồi cùng bao người dân Phù Nam cổ xưa tạo nên một dân tộc, một hiệp tộc quốc, sau nhiều biên thiên, suốt bốn nghìn năm lịch sử. Vâng, nước hiệp tộc Việt Nam, Việt Nam hơn lúc nào hết!
Tôi đang chậm bước về nhà, nghe lòng mênh mang sau phút choáng váng, trong nỗi suy tưởng hòa lẫn niềm cảm xúc về Ka Kring. Sáng tỏ. Bâng khuâng. Rồi lại phân vân. Và luẩn quẩn. Rồi dứt khoát. Biết làm sao được! Ka Kring ơi, Nam ơi, đêm nay tôi phải bằng mọi cách vào làng Đường Đàn, để tàn nhẫn đến độc ác, nói cho Nam rõ, rồi tùy Nam …
Một lần nữa đôi chân lại sững bước, bởi sức nặng của khối mâu thuẫn đột nhiên trĩu nặng trong tôi. Tôi thầm bảo, có sao đâu, nếu Nam trở thành khách thường trú (kiều dân) trong vòng tay đồng bào hiếu khách, cho dù luật pháp không đành xem là khách. Tôi lại muốn chúc mừng hạnh phúc của Ka Kring và người bạn thân nhất đời tôi, chúc mừng những dự định tốt đẹp Nam đã thốt ra trong bàng hoàng, hi vọng hồi nãy. Tôi chẳng từng khát vọng, xót xa trước bao trăn trở về hạnh phúc của Nam với Ka Kring đó sao! Tôi lại rảo bước. Con đường làng dẫn về nhà sao dài quá đỗi!
Dẫu sao, những dấu cảm vẫn rơi trong đầu, trong tim tôi như mưa từ những chớp lóe của ý nghĩ trên đường làng. Tôi đi nhanh, giục ba con trâu mau về chuồng dưới tiếng tre pheo xào xạc.
Sau khi dẫn trâu vào chuồng, tôi ăn vội chén cơm, liền mặc áo quần dài, đi nhanh qua nhà người anh họ để mượn xe, đạp vào nhà Nam. Đêm đó, tôi chưa kịp nói gì, Nam đã thú thật với những giọt nước mắt, anh không thể nào không tự cấm lòng mình (anh không thể tiếp tục yêu một cô gái lai, lai Nga, lai Pháp, lai Mỹ, lai Tàu, lai Nhật!…), dẫu anh quý trọng Ka Kring đến vô ngần và mong cô suốt đời hạnh phúc. Tôi biết Nam vẫn là người đam mê bốn chữ: thuần túy Việt Nam, kể cả về tư tưởng, tâm linh, nhưng trái tim, đôi mắt anh luôn mở rộng ra với nhân loại!
Đã gần hai mươi năm, từ buổi chiều hôm mùa hạ bên bờ sông Nhùng quê nhà Thuận Xá, và đêm gần khuya tại làng Đường Đàn, Quảng Trị năm bảy chín ấy …
Bây giờ, bên con đường như dòng sông đời ở Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh, lòng tôi đã mở rộng với cuộc sống, một cuộc sống thoáng đãng hơn, trong hơn mười năm mở ra những chân trời mới, mở ra những trang sử mới, những đúng, những sai mới, những vui, những buồn mới, những mừng, những đau mới. Bao niềm vui, bao nỗi đau, bao ý tưởng đúng đắn nhưng hơi quá khích của nhiệt tình thuở xa xưa ấy cũng đã trở thành kỉ niệm tẩm mật, chất mật nhân hậu của thời gian, vốn có trong tâm tưởng con người. Thương và yêu biết mấy tuổi hai mươi của chúng tôi ngày tháng đó.
Khởi viết lúc chín giờ sáng ngày 28.10.1998 (mùng chín tháng chín Mậu dần), viết xong lúc mười bốn giờ mười phút xế trưa 12.12.1998 (hai mươi bốn tháng mười Mậu dần).
Vì lí do kĩ thuật (đĩa mềm vi tính bị mất chữ), phải xếp chữ lại lần thứ hai.
Tác giả tự xếp chữ xong vào lúc mười giờ kém hai phút, ngày 06.04.2003 (05.03 Quý mùi HB.3).
Sửa chữa lỗi xếp chữ xong vào lúc năm giờ mười phút ngày 13.04.2003 (12.03 Quý mùi HB. 3).
CHÚ THÍCH
(1) Vương quốc được gọi là Sơ Ma hoặc Châu Mạ, phiên âm từ hai chữ: Chiau Mạa, có nghĩa là người Mạ. Cư dân thuộc nhân tộc Chiau Mạa cũng như tuyệt đại đa số trong các tộc người K’Hor chỉ có một họ: K’ (đọc là Cơ), với nam giới; Ka (đọc là Ca), với nữ giới; chẳng hạn: K’Đăng, Ka Kring … Xem thêm mục từ Cơ Ho, Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập I, TTBS. TĐBKVN., Hà Nội , 1995, tr. 614; Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, bản in lần thứ hai, Nxb. Thuận Hóa, 1997, tr. 211 – 213.
(2) Thơ bông đùa của Trần Xuân An.
(3) Kì thi tú tài duy nhất được tiến hành theo hình thức trắc nghiệm và chấm bằng máy điện toán IBM., vào cuối năm học 1973 – 1974.
(4) Tên đầy đủ: Đội Thanh niên Ánh sáng văn hóa.
(5)Tác giả: Nguyễn Dữ. Ở đây, nhắc đến yếu tố hoang đường.
(6) Ca dao.
(7) “Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ”: Ta có chút lòng không biết nói với ai.
(8)Ngôi trường tháng giêng, thơ của tác giả tiểu thuyết (TXA., tập Lặng lẽ ở phố, Nxb. Trẻ, 1995); sử dụng để hư cấu nhân vật Nam và nhân vật xưng “tôi” (Đỗ Khoai)... Xin lưu ý thêm: Tất cả các nhân vật trong tiểu thuyết này, đều là hình tượng hư cấu theo phương thức phản ánh hiện thực của văn học. Xin được khẳng định rõ như thế để tránh những ngộ nhận đáng tiếc.
(9) Thơ TXA. (bản phác thảo).
(10) Viết tắt của các chữ: Đội 6, Hợp tác xã xã Bảo Nghĩa, huyện Công.
(11) Nhắc lại câu nói có chơi chữ của Bác Hồ: “Mỹ mà xấu!”.
(12) Nguyên văn: “Tha hương ngộ cố tri”; “Mặt em là quê hương”.
(13) “Lời mẹ dặn”, “Chống tham ô lãng phí” là hai bài thơ của Phùng Quán, in trong tuyển tập Nhân Văn giai phẩm, đã được diễn ngâm trong đêm thơ tưởng niệm Phùng Quán, 17.12.1998, tại Cung Văn hóa Lao động Tp. HCM., do Hội Đồng hương Huế tại Tp. HCM. và Hội Cựu Thiếu sinh quân LK. IV tổ chức.
(14) Bài nói chuyện của nhà văn Vũ Hạnh tại giảng đường I, ĐHSP. Huế, 1977 – 1978.
(15) Nhạc và lời: La Hữu Vang. Các ca từ trong tiểu thuyết này đã được tra cứu lại theo sưu tập của Nguyễn Ngọc Khôi, Trần Đức Tâm.
(16) FULRO.: Front Unifié de Lutte des Races Opprimées (Mặt trận liên minh chiến đấu của các nhân tộc bị áp bức).
(17) Tên thật của một con suối chảy ngang qua huyện Bảo Lộc, Lâm Đồng. Đi trên quốc lộ Hai mươi, từ Đà Lạt về Sài Gòn, ở đoạn sắp đến thị trấn B’Lao, xe phải qua chiếc cầu bắc ngang con suối này.
(18) Nhạc và lời của Trần Chung.
(19) Nhạc Phan Huỳnh Điểu, thơ Bùi Công Minh.
(20) Bài tháng giêng, Tóc bay sương trắng, thơ Trần Xuân An, trong tập Nắng và mưa, Hội VHNT. Quảng Trị xb., 1991.
(21) Thơ Xuân Diệu.
(22) Nhạc Liên Xô.
(23) Nhạc X-trốt-x (J. Strauss, Áo): Beau Danube bleu; nhạc Quy-r-tít-x (E. Curtiss, Ý): Back to Sorriento.
(24) Nguyên văn đã đăng báo sau khi tác giả tự sửa lại: “Cây xanh tình Bác, thiêng liêng” (1976).
(25) Quan niệm thẩm mĩ có tính lịch sử – cụ thể, như trong các tục nhuộm răng, xăm mình (Kinh …), đàn ông xõa tóc dài (châu Âu …), đàn ông mặc váy (Nhật …) …
(26)Câu thơ này chưa tra cứu lại được.
(27) “Tháng chín mưa thơm mùa rét cũ”, thơ Trần Xuân An, trong tuyển thơ ĐHSP. Huế, 1976, bản ronéo, (đã trích in lại trong tập Kẻ bị ném vào bão, Nxb. Trẻ, 1995).
(28)Sống như anh, tác phẩm của Trần Đình Vân, ghi theo lời kể của chị Quyên, vợ liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi.
(29) Tác phẩm của Nhất Linh.
(30) Tên một loại thuốc lá, để kỉ niệm Ngày 30.04.1975.
(31) Ka Đum, thơ Trần Xuân An, trong tập Tôi vẫn ở trên đường, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1993. xem thêm chú thích (46).
(32) Sài Gòn, trưa đi lạc, thơ Trần Xuân An trong tập Hát chiêu hồn mình, Nxb. Đồng Nai, 1992.
(33) Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi.
(34) KTM.: [Vùng] kinh tế mới (vùng khai hoang lập ấp).
(35) Cái bóng, truyện ngắn Endersen, giải thích một cách hồn nhiên, ngây thơ về màu da đen …
(36) Samuel Berket, Trong khi chờ Goldot.
(37) Nhạc và lời: Trương Quang Lục, Định Hải.
(38) Một khoảnh rừng già được làm nghĩa trang, còn được để lại giữa đồn điền trà, trông thật chơ vơ, lẻ loi, nên người ta gọi là Rừng mồ côi.
(39) Trước Cách mạng Tháng tám, vua nước ta chỉ được Trung Hoa phong vương, bị xem như vua chư hầu. Trong thực tế, vua nước ta thuộc các triều đại đều tự xưng đế (hoàng đế), với sự khẳng định chủ quyền Đất nước, sự bình đẳng dân tộc, quốc gia, ngang với hoàng đế Trung Hoa.
(40) B’Lao, một thoáng tiếng hát, thơ Trần Xuân An, trong tập Tôi vẫn ở trên đường, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1993.
(41) Thơ Chế Lan Viên.
(42) “Cử đầu, vọng minh nguyệt; Đê đầu, tư cố hương”.
(43) Thơ Trần Xuân An (bản phác thảo).
(44) Quốc tế ca của Quốc tế Cộng sản: Internationale ([thế giới] có tính quốc tế): Thế-giới-rất-đại-đồng-văn-minh (bảy âm tiết).
(45) The United States of America: Liên bang [ấy] của [:ở] châu Mỹ.
(46) Khúc vào mùa, thơ Trần Xuân An trong tập Hát với đời, ơi thương mến, Nxb. Trẻ, 1996; Ka Đum, thơ TXA., trong tập Tôi vẫn ở trên đường, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM.. Một vài từ thuộc tiếng Chiau Mạa: Pạp: người cha, người bố; sá: gùi mang sau lưng.
(47) Thập giá và lưỡi gươm, đó là một cụm từ xưa nay được dùng để chỉ mối quan hệ giữa Thiên Chúa giáo và chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Trần Tam Tỉnh (linh mục viện sĩ Viện Hàn lâm Canada) sử dụng cụm từ này để đặt tên cho cuốn sách của ông, nguyên bản tiếng Pháp, bản dịch của linh mục Vương Đình Bích, Nxb. Trẻ, 1988. Nhan đề cuốn sách đúng nguyên văn là: Dieu et Çésar (Thiên Chúa và Xê-da [hoàng đế đế quốc La Mã]).
(48) Nhan đề tác phẩm của A-lăng Pa-tông (Alan Paton).
(49) Khoai lang: batatas. Các thông tin khác ở đoạn này, tác giả dẫn theo học giả Trần Quốc Vượng.
TIỂU THUYẾT HƯ CẤU
NGÔI TRƯỜNG THÁNG GIÊNG
TÁC PHẨM THỨ MƯỜI HAI
CỦA TRẦN XUÂN AN
71B PHẠM VĂN HAI
PHƯỜNG BA, QUẬN TÂN BÌNH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆT NAM
ĐT.: [08] 8453955 & 0908 803 908
VIẾT XONG VÀO CHIỀU THỨ BẢY
MƯỜI HAI THÁNG MƯỜI HAI
MỘT CHÍN CHÍN TÁM
TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN
TỪNG CHỮ VÀ TỪNG Ý TƯỞNG CỦA MÌNH
KỈ NIỆM SINH NHẬT BA TRĂM TUỔI CHẴN
THÀNH PHỐ SÀI GÒN – HỒ CHÍ MINH
(12.12.1698 – 12.12.1998)
TƯỞNG NIỆM NĂM THỨ BA
NGÀY MẤT CỦA NHÀ THƠ XỨ HUẾ
PHÙNG QUÁN (ĐÊM THƠ, TP.HCM., 17.12.1998)
KỈ NIỆM SINH NHẬT LẦN THỨ MỘT TRĂM CỦA
NHÀ VĂN ĐỨC E.M. RƠ-MÁC
(ERICH MARIA REMARQUE, 22.06.1898 –22.06.1998)
ĐÂY LÀ BẢN XẾP CHỮ VI TÍNH LẦN THỨ HAI.
TÁC GIẢ TỰ XẾP CHỮ XONG VÀO LÚC MƯỜI GIỜ KÉM HAI PHÚT,
NGÀY 06.04.2003 (05.03 QUÝ MÙI HB.3).
Trần Xuân An
Sinh ngày 10. 11. 1956 tại Huế;
Nhân tộc: Kinh (Việt Nam);
Quê gốc: Quảng Trị;
Tốt nghiệp khoa ngữ văn Việt ĐHSP. Huế (1974 – 1978);
Dạy học tại Lâm Đồng, 1978 – 1983;
Hiện nay, chuyên sáng tác, nghiên cứu
(Hội viên Hội Nhà văn TP. HCM.).
Tác phẩm đã xuất bản và đã đăng kí bản quyền tại Cục bản quyền tác giả văn học nghệ thuật Việt Nam:
1. Nắng và mưa, thơ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
2. Hát chiêu hồn mình, thơ, Nxb. Đồng Nai, 1992.
3. Tôi vẫn ở trên đường, thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1993.
4. Lặng lẽ ở phố, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
5. Kẻ bị ném vào bão, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
6. Hát với đời ơi thương mến, thơ, Nxb. Trẻ, 1996.
7. Quê nhà yêu dấu, trường ca thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1998.
8. Có một nơi lá mãi xanh, tiểu thuyết, Nxb. Hội Nhà văn, 1999.
9. Ngôi trường tháng giêng, tiểu thuyết, 1998, Nxb. Thanh Niên, 2003.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananngoitruongthgieng.blogspot.com/
10. Sen đỏ, bài thơ hoà bình, tiểu thuyết, 1999, Nxb. Thanh Niên, 2003.
11. Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử, trọn bộ 4 tập, 2002 – 2003; Nxb. Văn Nghệ TP. HCM.
http://www.giaodiem.com tháng 11-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm
12. Ngẫu hứng đọc thơ, phê bình thơ, 2003; NXB. Văn Nghệ TP. HCM., 2005
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
Tác phẩm đã hoàn tất bản thảo:
13. Mùa hè bên sông (Nỗi đau hậu chiến), tiểu thuyết, 1997; hai bản đã sửa chữa và bổ sung, 2001 (lần hai) và 2003 (lần ba).
Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com tháng 6-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
14. Thơ những mùa hương, thơ.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
15. Giọt mực, cánh đồng và vở kịch điên, thơ.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
16. Nước mắt có vị ngọt, tập truyện ngắn, 1999.
http://www.giaodiem.com tháng 10-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm
Soạn phẩm biên khảo đã hoàn tất bản thảo:
17. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), thơ – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng (biên soạn – nghiên cứu, phản bác, và tập hợp một số bản dịch, bài khảo luận văn học và sử học về NVT.), 2000 & 2003.
http://www.giaodiem.com tháng 8-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
18. Tiểu sử biên niên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường – “kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp” (từ Đại Nam thực lục, rút gọn), dạng niên biểu, sách dẫn chi tiết, phần I, 2001.
19. Những trang Đại Nam thực lục về Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) và các sự kiện thời kì đầu chống thực dân Pháp… (Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học VN.), chọn lọc, phần II, 2001.
20. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, khảo luận và phê bình sử học, 2002 & 2003. Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
21. Suy nghĩ về một số vấn đề trong lịch sử cổ đại nước ta, khảo luận, 7.2004.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
Tặng thưởng, giải thưởng:
1. Báo Văn nghệ giải phóng, 1975.
2. Giải Sáng tạo trẻ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.
Xin truy cập thêm:
http://tacphamtranxuanangiaodiem.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN
TỪNG CHỮ, TỪNG Ý TƯỞNG CỦA MÌNH.
TRÂN TRỌNG VÀ THÀNH THẬT BIẾT ƠN.
XIN TÌM ĐỌC
CÁC CUỐN SÁCH KHÁC CỦA TÁC GIẢ
KÍNH CẢM ƠN
HẾT
NGÔI TRƯỜNG THÁNG GIÊNG
trọn cuốn tiểu thuyết gồm 4 phần
(I [không ghi số], II, III & IV)
XIN VUI LÒNG ĐỌC TỪNG PHẦN TỪ DƯỚI LÊN TRÊN
THEO SỐ THỨ TỰ CỦA MỖI PHẦN
phần IV
(tiếp theo phần III [đoạn 21 – đoạn 33])
34
Nắng ban mai tháng tư vàng rực. Hôm nay học sinh đến trường hơi muộn so với thường lệ. Sáng thứ năm, nhưng các em không mang theo cuốc, xẻng, xà bất. Trên sân trường cũng chỉ là học sinh cấp hai cùng rất ít học sinh năng khiếu ngữ văn cấp một.
Khoảng bảy giờ rưỡi, Hoán, Hạ, Nam, Khoai và Nghệ đã tháo dỡ xong bức ván gỗ ngăn hai phòng học để có một hội trường. Huyện hướng dẫn học sinh lớp chín khiêng thêm bàn ghế vào, sắp xếp lại cho ngay ngắn.
Lộc Biếc cùng Lụa đang gắn nốt các vuông giấy nhỏ được gấp làm tư, với một đoạn chỉ xâu qua, vào một cành cây xanh lá được chôn hẳn gốc của nó xuống nền đất lớp học, phía phải bảng đen, đối xứng với bàn giáo viên. Thoạt nhìn, cứ ngỡ như cây xanh tốt đã mọc ở đó lâu lắm rồi, đang trổ một thứ hoa lạ, cánh giấy và nhụy chữ!
Ka Kring cùng Suối Vui, Đồi Hương, Trăng Thu dùng phấn màu viết các dòng chữ theo mẫu trang trí lên bảng đen, phía dưới dòng chữ khác đã được cắt dán bằng giấy thủ công. Một huy hiệu Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh bằng tôn dày được sơn kẻ khá đẹp do Huyện đoàn phân phối, được treo ngay giữa phần trên tấm bảng. Huy hiệu ấy cỡ bằng vành lớn của chiếc nón lá. Ka Kring quả là có năng khiếu hội họa.
Tám giờ, sau tiếng kẻng của Hạ, học sinh quàng khăn đỏ tập hợp trước hai cửa của hội trường, ban giám khảo cũng ngồi sẵn ở hai dãy ghế đầu.
Cô Lụa ổn định các chi đội bằng một bài hát. Sau đó là nghi thức Đội do Lụa và em Ngày điều khiển. Hai ngọn đuốc bập bùng cháy do hai đội viên khác đứng cầm hai bên cây dân chủ trổ hoa bằng giấy. Cô giáo Lụa, lúc này đang làm chức năng chị tổng phụ trách liên chi Đội, lĩnh xướng. Ngày, liên chi đội trưởng, đọc một bài văn vần với giọng đọc bổng trầm. Trước khung cảnh và không khí ấy, Nam khẽ rùng mình xúc động. Anh ngỡ đang dự một buổi lễ tôn giáo! Đây là lần thứ hai Nam có cảm giác kì lạ này. Lần trước, ấy là buổi lễ kết nạp đội viên, thi hái hoa dân chủ nhằm tìm hiểu lịch sử Đội và lần này. Được đào tạo theo hệ giáo viên cấp ba, đối tượng giảng dạy là tuổi thanh niên (từ mười sáu tuổi đến mười tám tuổi), nên Nam không hiểu, cứ tự thắc mắc, chẳng biết nghi thức Đội vốn thế hay do Lụa với Ngày đã phả vào đó chất tôn giáo, nhất là cách diễn xướng như thể kinh kệ. Nam cũng từng biết, khung cảnh, không khí chùa chiền, giáo đường, am miếu, thánh thất cùng kinh kệ và đức tin tín ngưỡng đã dẫn đưa tín đồ, đạo hữu vào cảm xúc huyền bí thế nào, thậm chí họ còn bị tác động đến mức lên đồng, nhập cốt. Âm nhạc tôn giáo cũng là một ma lực!
Nhưng đến nay, Đội Thiếu niên ở trường Bảo Nghĩa chưa có dàn trống ếch rộn rã, hùng tráng!
Nam mỉm cười khi nghi thức Đội chấm dứt. Lộc Biếc nói vài lời khai mạc cuộc thi đọc diễn cảm văn học. Cô cùng Ka Kring đã chuẩn bị gần một tháng nay cho các em. Đây là cuộc thi nhằm rèn luyện cho học sinh một kĩ năng văn chương. Lộc Biếc nói, cảm thụ văn chương tốt sẽ đọc diễn cảm tốt, và ngược lại, đọc diễn cảm tốt sẽ giúp các em cảm thụ tốt hơn. Qua cuộc thi, Lộc Biếc hi vọng thầy cô, các thành viên ban giám khảo, gồm anh Giảng, anh Quỳnh, anh Ruộng, cô Lụa, sẽ thấy được nội lực văn chương của các em, của từng em ở mức nào. “Văn là người (bút pháp là người)”, đọc diễn cảm cũng là người, trong chừng mực nào đó. Với kì thi ngoại khóa này, Lộc Biếc nói, cô tin học sinh sẽ thú vị với ngữ văn hơn. Tiếp theo, Ka Kring chỉ nói ngắn gọn: “Văn chương là phần hồn, là bản sắc và bản lĩnh dân tộc. Người không học, không yêu thích văn chương sẽ không có tâm hồn. Người không có tâm hồn thật đáng sợ”.
Nam ngỡ như Ka Kring tự định nghĩa chính xác và trung thực về chính cô: chính văn hóa – lịch sử Việt Nam đã sinh nở, bú mớm và nuôi dạy phần hồn, bản sắc và bản lĩnh, của Ka Kring!
Rồi Ka Kring hướng dẫn cách hái hoa dân chủ – văn học cho các em. Cuối cùng, trước khi bắt đầu cuộc thi do Ngày, liên chi đội trưởng, điều khiển, Ka Kring lại nhấn mạnh phạm vi rộng và hẹp của cuộc thi: các bài trích giảng về nhiều đề tài, các bài tự chọn khác về Mẹ Việt Nam.
Từng học sinh dự thi lên hái hoa. Trong vuông giấy nhỏ là một câu hỏi về kiến thức văn học, một đầu đề bài đọc bắt buộc. Mỗi em hái một bông hoa bằng giấy, trả lời, đọc bài được yêu cầu với trang sách do hai cô giáo thay nhau đưa cho, sau đó, tiếp tục đọc bài tự chọn về Người mẹ Việt Nam.
Những bài trích giảng văn học cổ như Hịch Tướng sĩ, Đại cáo bình Ngô, cả Kiều, Lục Vân Tiên, cả ca dao về lao động, về phong cảnh quê hương, Đất nước, xen lẫn với Bầm ơi, Mẹ Tơm, Mẹ Suốt của Tố Hữu, thơ Dương Hương Ly, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Khoa Điềm về Mẹ và các đề tài khác, lại có cả tuồng Nghêu Sò Ốc Hến, cả văn xuôi Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Anh Đức, Nguyễn Thi …
Nam và Khoai cũng đọc diễn cảm phụ họa, giúp tăng cường không khí văn nghệ. Là hai người làm thơ, họ đọc hay đến không ngờ. Thì ra, để đọc hay, chất giọng chỉ một phần, phần khác, đó là năng lực nhập thân, năng lực nghệ sĩ, và trình độ ngôn ngữ, cả vốn sống trải nghiệm, đáng kể nữa, là kinh nghiệm sáng tác. Nội lực đã cứu giọng vịt cồ của Khoai!
Suốt gần ba tiếng đồng hồ, chỉ giải lao tại chỗ năm phút, bằng vài bài hát vui tập thể, hội trường tự quản bởi các em (Ngày vẫn là nhân vật nổi bật nhất), đã tạo được sinh khí văn chương như một ngày hội Tao Đàn nhưng không cung đình.
Nam vẫn cứ thú vị, tâm đắc mãi một câu hỏi trong đóa hoa bằng giấy: “Tại sao rất ít bài thơ viết về cha, trong khi đó hầu như không nhà thơ nào không viết về mẹ?” . Nam chợt nhớ, đã có thời anh đã lấy bút danh với ý nghĩa là Người mẹ, theo một biểu tượng cổ điển, cây cỏ huyên trước nhà – ngôi nhà của mẹ.
Câu hỏi ấy, câu hỏi quá khó, nhưng rất dễ, ai cũng có thể trả lời được, nếu thật hồn nhiên. Một học sinh giỏi văn lại không trả lời được, bởi em bị mắc kẹt trong kiến thức, mãi dẫn chứng, suy luận.
Cuối cuộc thi, về giải tập thể, giải cá nhân, lớp Huyện phụ trách chủ nhiệm, tuy là lớp chín, lại yếu nhất. Khi vãn cuộc, học sinh ra về, giáo viên ở lại dọn dẹp hội trường, Lụa nói vô tình: ““Thầy sao trò vậy”! Bốn lớp do bốn giáo viên chủ nhiệm mang rõ dấu ấn của bốn thầy cô giáo”. Huyện chạnh lòng, chột dạ. Huyện liên hệ với câu nói của Ka Kring hồi nãy, về phần hồn của con người là văn chương, anh đâm ra tự bực mình.
- Sao không có học sinh năng khiếu về các môn tự nhiên, khoa học thuần lí và khoa học thực nghiệm?– Ka Kring lại vui miệng hỏi –.
- Có chứ. Nhưng khoa học tự nhiên của mình đều dạy và học “chay”. Học hóa học, lại chẳng có một hóa chất!… “Khoa học – kĩ thuật là then chốt” đấy!– Huyện cười mỉa –. Đất nước mãi nghèo, vì sính văn chương, kém khoa học – kĩ thuật.
- Hồn và xác! Xác rất quan trọng. Khoa học tự nhiên lo phần xác, phải vậy không?– Ka Kring chịu thua –. Có điều, văn học, trong đó có lí luận, đơn cử như nghiên cứu về nghệ thuật đọc diễn cảm, bao gồm cả kĩ thuật của nghệ thuật này, cũng là khoa học! Nhưng công nghệ … Vâng, then chốt nhất là các khoa học tự nhiên!– Cô mỉm cười gỡ gạc cho vui –.
Dẫu sao, câu nói “thầy sao trò vậy” của Lụa cũng làm đau lòng Huyện không ít. Cùng với Hạ và các giáo viên nam, Huyện vừa dựng lại bức ván gỗ ngăn thành hai lớp học như cũ, vừa ngẫm câu nói của Ka Kring trước cuộc thi. Huyện thấy, quả thật anh không yêu nghề giáo lắm. Huyện vốn là con trai của một bà mẹ – bác sĩ, của một người cha – y tá. Hai người anh của Huyện lại là luật sư, chỉ riêng Huyện thích ngành y dược. Đỗ tú tài xong, Huyện thi vào Đại học Y khoa Huế, vì ở Huế không có Khoa Dược. Đang học dự bị y khoa, Huyện lại bị chuyển qua Khoa Hóa Đại học Sư phạm Huế, sau Ngày Giải phóng. Phải chăng, vì không có chí nguyện làm nhà giáo, Huyện không quan tâm lắm đến học sinh lớp anh chủ nhiệm. Qua phong trào thi đua “Về thăm Lăng Bác” vào dịp Ba mươi Tháng tư và Mươi chín Tháng năm được phát động đầu năm học đến nay, Huyện càng thấy rõ điều đó.
Vặn xong chiếc bù loong cuối vào cột gỗ cho bức vách ván ngăn phòng học vào đúng vị trí, Huyện càng đăm chiêu về “phần hồn” của mình. Giả như anh là một bác sĩ, anh không có tâm hồn, anh thật đáng sợ, nói rõ ra là nguy hiểm sao! Quả thật, Huyện không yêu văn chương! Anh nào quan tâm gì đến các giá trị tình cảm cao đẹp do văn học nghệ thuật phản ánh, các giá trị tư tưởng sâu sắc mang tính nhân văn chủ nghĩa được thể hiện qua những hình tượng văn chương! Anh chỉ say mê hóa học, sống theo tập quán tự nghìn đời, chưa đủ ư?
Huyện lững thững theo các bạn đồng nghiệp lên nhà tập thể. Khát vọng nghiên cứu, bào chế và sản xuất hóa dược lại réo sôi trong trái tim anh. Hạnh phúc là chọn chỗ đứng thích hợp với mình, Huyện nghĩ.
35
Lúc ngồi tổng hợp điểm thi các bộ môn vào giữa học kì hai, so sánh với các lớp, Huyện đã phát cáu. Anh càng cáu thêm khi đối sánh các mặt thi đua “hai tốt” khác, trong đó có vấn đề học sinh cá biệt chậm tiến. Lớp chín do Huyện chủ nhiệm – anh đã thay cho Lộc Biếc từ trước đại hội, buổi báo cáo chuyên đề của cô đầu học kì một – vốn có hai học sinh cá biệt khiến anh bực mình không ít. Nhi, con gái ông Lịch, ủy viên Ban Chấp hành Hội Phụ huynh học sinh, và Hộ, con trai của một ông gàn sắm vai kẻ bất phùng thời. Thầy giáo Huyện bực mình không chỉ vì hai học sinh cá biệt, mà còn do kết quả kì thi kiểm tra chất lượng giữa học kì của cả lớp chín, lẫn kết quả cuộc thi đọc diễn cảm văn học vừa rồi nữa, nhưng nổi cộm nhất tuần này vẫn là sự cố Hộ và Nhi!
Sáng nay, ở tiết sinh hoạt cuối tuần, Huyện cau mày nghe lớp trưởng nhận xét lớp với bản báo cáo trong tay. Số lượng tiết học B và C vẫn nhiều hơn số tiết được giáo viên bộ môn đánh giá là A trong sổ đầu bài! Lại sự cố nữa, cũng vẫn là Nhi với Hộ! Thầy giáo Huyện gọi Hộ lên đứng trước lớp. Vẻ mặt Hộ vẫn câng câng. Không kìm chế được nữa, Huyện run những ngón tay, gương mặt anh tái mét. Huyện vung tay tát Hộ bằng cái tát nẩy lửa. Cả lớp và Huyện thấy Hộ chúi nghiêng vào vách ván. Ngỡ sau cái tát, Hộ sẽ khóc hoặc sẽ hốt hoảng xin tha, nhưng Hộ lại đứng yên sau phút nảy đom đóm, choáng váng, suýt ngã dúi người. Hộ đỏ bầm mặt vẫn không hề có giọt nước mắt nào. Đưa ngón tay lẩy bẩy vào miệng, Hộ thấy có máu. Hộ nuốt bãi nước bọt mặn vị máu ấy vào bụng, nhếch môi cười!
Huyện rít qua kẽ răng:
- Hộ, mày … em còn là con người nữa không? Sao lại xô ngã Nhi xuống suối? – Huyện suýt “mày, tao” với học sinh –. Đấy, xem sách vở Nhi phơi ngoài sân kia kìa!
Thấy bản mặt Hộ lầm lì như đã chai đòn, Huyện nhớ đến ông Mộ, bố của Hộ, với hàng chục chiếc roi mây để nguyên gốc rễ dắt trên vách gỗ ở thôn B, những cú đấm, cú đá vô cớ và có cớ, cả tấm bảng viết mấy chữ kể tội thường treo vào cổ Hộ, rồi buộc chú bé mười sáu tuổi này chạy khắp thôn. Thầy giáo Huyện lóe lên một ý tưởng, bảo:
- Hộ, em hãy lấy một tờ giấy đôi.– Huyện gằn giọng –.
- Thưa thầy …– Hộ lắp bắp –.
- Kiểm điểm với em không còn tác dụng. Lần đầu tiên tôi tát em, cũng vô ích. Lấy giấy bút ngay!– Huyện quát –.
Hộ đi xuống lớp, mở bao ni lông đựng sách vở, giật một tờ giấy đôi từ giữa cuốn vở, lấy bút, lên lại bàn giáo viên.
- Em viết tên họ thật lớn vào giấy.– Huyện cắn chặt hai hàm răng cuối câu nói, kìm lại nỗi đau muốn trào lên –.
Hộ ngơ ngác. Huyện gắt:
- Nhanh lên!
Hộ viết xong, lặng lẽ nhìn tên họ mình trên giấy.
- Quỳ xuống!– Huyện lại bảo –.
Hộ nhìn xuống lớp. Cả lớp ngạc nhiên. Hộ chẳng hiểu vì sao thầy giáo lại như ba Hộ. Hộ chuẩn bị chạy khắp thôn A này? Hộ cảm thấy nhục. Ở B, Hộ quen rồi. Hộ tự bảo, nó sẽ nhục như ở B tại thôn A này sao! Quỳ rồi chạy ư?
- Quỳ xuống!
Hộ quỳ xuống. Hộ bỗng mỉm cười khi hiểu thầy giáo Huyện bảo nó phải đi bằng đầu gối khắp thôn A. Với đầu gối, làm sao nó đi khắp được, a ha!
- Trải trang giấy ra tay. Hãy khạc nhổ vào tên họ của em. Nghe chưa! Hãy sỉ nhục danh dự của chính em!
Hộ khạc nhổ như cái máy, đến khi không còn giọt nước bọt nào. Trên trang giấy trắng học trò, nước bọt hòa với máu chảy ra từ kẽ răng, nhòe nét mực tím ghi tên họ Hộ. Hộ vô cảm, thấy thế cũng nhẹ nhàng! Hộ phỉ nhổ tên họ mình đến khi trang giấy trắng đỏ lòm vết máu. Thầy giáo Huyện chưa bảo ngừng, Hộ vẫn nhổ khan đến khô cả cổ.
- Nhi, lên bảng!
Nhi là cô bé đã bước vào tuổi thanh niên, cao ráo, trắng trẻo, mái tóc dài đen mượt. Nhi riu ríu, sợ hãi bước lên.
- Đứng trước mặt Hộ!
Nhi sợ hãi hơn, nhìn chiếc áo trắng ngả màu cháo lòng của mình. Nhi ngỡ Hộ sẽ nhổ máu vào đấy. Cả lớp bàng hoàng, chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra. Hơn hai mươi em lớp chín chưa bao giờ thấy thầy Huyện phạt. Suốt năm học, khi giận lắm, thầy chỉ quát nạt, và cũng chỉ thế.
- Hộ! Hãy lạy Nhi một trăm lần!
Nhi đỏ bừng mặt. Hộ lạy như cái máy.
Huyện đã hả giận. Anh cảm thấy hối hận, biết mình đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng. Song Huyện phải tăng cường độ đau về tinh thần với Hộ. Thầy giáo Huyện nghiến răng để kìm chút trắc ẩn.
- Hãy liếm sạch vết máu, nước bọt trên giấy! Hãy liếm sạch tên họ của em! Liếm cho đến bao giờ không còn tên họ nữa, vì em không xứng đáng có tên họ. Em còn thua cả con chó! Con chó còn được có tên, còn em thì không xứng đáng.
Huyện nói xong, anh cảm thấy mình độc ác đến không ngờ. Không, với Hộ, phải thế. Anh phải đóng hết màn kịch độc ác này, để cứu vớt Hộ. Hộ đã lờn “thuốc”. Thật ra, anh cũng chẳng biết mình có đóng kịch hay không!
Huyện nhìn học sinh cá biệt xấu của mình lè lưỡi liếm đến rách cả giấy trong lúc Nhi còn tủi nhục bởi trăm cái lạy của Hộ, kẻ thường xuyên bắt nạt cô bé, nhưng lại tỏ tình với cô bé nữa! Nhi chẳng hiểu sao Hộ lại quái đản đến thế. Cả thân hình khá cao lớn, rắn chắc bỗng mềm xàu, run rẩy khi Hộ ấp úng bảo Hộ yêu Nhi, lại hung tợn, tàn bạo khi chửi rủa, xô ngã Nhi trên đường mòn, và cả mới đây, xuống suối, làm ướt hết áo quần, sách vở. Những lần đó, sau khi chửi rủa, xô ngã Nhi, Hộ chỉ đứng nhìn Nhi lấm láp bụi, ướt sũng nước, và Hộ cười hô hố!
Huyện giật mình nghe tiếng kẻng. Đã hết tiết sinh hoạt lớp. Huyện thất vọng, thấy Hộ vẫn chai lì. Thầy giáo Huyện bối rối thật sự. Không có tác dụng gì hết! Hộ không còn biết nhục nữa! Nhân tính của nó không còn! Nó chẳng có ý niệm về danh dự, nhân phẩm!
Huyện chán nản, bỗng thấy anh đã phạm tội nhục hình học sinh, có thể to chuyện.
- Các em!– Huyện nói với cả lớp –. Đây là lần đầu tiên và cuối cùng tôi bạt tai học trò, nhục hình học trò. Các em hãy nhớ giùm tôi. Với Hộ, đã hết “thuốc” chữa. Tôi tuyên bố đầu hàng. Ở các nước, đối tượng như Hộ không được phép học ở trường phổ thông. Ở nước ta, không được phép đuổi bất kì học sinh nào, vì đuổi học sinh là sẽ đẩy học sinh vào con đường ngu dốt, vào nhà tù, do học sinh bị thất học, và thất học là có nguy cơ phạm tội cao hơn. Nhưng ở nước ta lại không có trường giáo dục học sinh cá biệt xấu. Một “con sâu” đã “làm rầu nồi canh”. Lớp chín các em là “nồi canh” “rầu”, hỏng, vì Hộ. Suốt năm học, tôi đã dùng mọi biện pháp. Có điều, vô ích. Lần nữa, tôi tuyên bố đầu hàng. Còn Nhi, Nhi chỉ là nạn nhân của Hộ trong trường hợp này. Nhi học kém là việc khác.
Huyện đi ra khỏi lớp. Ka Kring thay Hoán làm chủ nhiệm lớp tám bên cạnh, mở tròn mắt nhìn Huyện bước xuống sân trường. Ka Kring biết hết những gì đã xảy ra. Huyện đã vi phạm nguyên lí giáo dục đến mức nghiêm trọng; về tính chất, nghiêm trọng không khác gì cô giáo Xinh tự làm nhục mình bằng quan hệ hủ hóa! Huyện đã chạm nặng đến nhân phẩm của cả Hộ lẫn Nhi.
Cả lớp chín sững sờ. Hai mươi mấy học sinh nhao nhao xỉ vả Hộ. Hộ đứng thẳng, nét mặt lạnh lẽo, nhếch mép cười, khóe miệng Hộ đã khô vết máu.
Ở lớp bảy, Nam cũng biết. Nam vội chạy qua lớp chín. Nam ôn tồn nói:
- Các em không được xỉ vả nhau. Hãy ra về trong trật tự như mọi hôm. Nhớ là không được kể chuyện tiết học vừa rồi cho bất kì một ai, kể cả cha mẹ, bạn bè, anh chị em.
Nam bảo năm em nhắc lại năm lần câu nói của anh vừa rồi. Anh lại hỏi:
- Các em nhớ chưa?
- Dạ nhớ …– Các em đáp –.
Ka Kring chưa cho học sinh lớp tám về, cô đứng nghe Nam.
- Đó là một “bài thuốc” cuối cùng của thầy giáo Huyện. Nếu Hộ không sửa mình, chỉ còn cách trình báo với công an. Các em về!
Ka Kring cũng vào lớp mình dặn dò như vậy.
Cả Nam lẫn Ka Kring biết họ đã sai lầm bởi sai lầm của Huyện. Là nhà giáo, đem công an ra để răn đe học sinh, thật đáng xấu hổ! Hai người bước song song lên nhà tập thể.
- Em không ngờ anh Huyện lại kinh khủng thế!– Ka Kring khẽ nói –. Sao anh Huyện nghĩ ra cách phạt kinh khiếp thế!?
- Kinh khủng thật. Ở bên lớp bảy, mình cũng nghe được tiếng gầm của Huyện. Không ai giáo dục như vậy, nếu là nhà giáo.
- Có lẽ anh không nghe được lời anh Huyện sau tiếng kẻng. Những lời ấy có lí lắm. Nhưng làm sao cứu được một con người là Hộ!– Ka Kring lại nói, và kể cho Nam nghe –.
Gần đến nhà tập thể, hai người đứng lại giữa nắng. Nam nghe, nhìn vào đáy mắt nâu trong vắt của cô giáo lai xinh đẹp. Anh đọc thấy ở đó một nỗi đau.
- Ừ, nước mình chưa có trường phục hồi nhân phẩm cho dạng học sinh cá biệt xấu như Hộ thật.– Nam buồn rầu nói –.
Họ còn chưa biết dạng tình yêu tuổi mới lớn rất kì quái của Hộ. Một trái tim từ thuở thơ ấu đến lúc mới bước vào tuổi thanh niên, bị đặt trên đe dưới búa vì lỗi lầm và không lỗi lầm, đã méo mó, bầm dập, dị hợm! Đến khi trái tim ấy tới tuổi chớm yêu, với tình yêu mơ hồ trong tình bạn, thứ tình cảm ấy cũng trở nên quái dị. Trái tim bản năng không được thắp sáng bằng lẽ sống hướng thượng, ấy là quyết tâm học tập, rèn luyện, tu dưỡng để xây dựng sự nghiệp riêng trong sự nghiệp chung của xã hội! Đúng hơn, ánh sáng ấy không sáng nổi bởi phương thức giáo dục bằng cách huấn nhục của ông bố tên Mộ.
36
Ngay sau tiết chủ nhiệm của buổi sáng thứ bảy ấy, Huyện lên gặp anh Giảng, trình bày hết mọi việc xảy ra. Anh Giảng cũng bàng hoàng lắng nghe. Các giáo viên hầu như vì thế nên đã biết chuyện.
Ngay tối hôm ấy, anh Giảng dặn mọi người yên lặng về việc này, nhất là đừng để Phòng Giáo dục và Chi bộ, Ủy ban xã Bảo Nghĩa hay sự vụ, trước khi có biện pháp giải quyết.
Sau mấy hôm suy nghĩ, nhóm giáo viên trẻ cấp hai cùng anh Giảng, anh Quỳnh qua B, để gặp bố của Hộ lẫn gia đình Nhi, kết hợp với việc thanh tra hoạt động xóa nạn mù chữ ở các lớp bổ túc văn hóa ban đêm tại các xóm cùng thôn. Chiều thứ tư đi, sáng thứ năm về.
Chiều thứ hai này, Ban Giám hiệu, Ban Chấp hành Công đoàn trường, Ban Chấp hành Chi đoàn giáo viên họp với các giáo viên bộ môn giảng dạy lớp chín. Ka Kring, Nghệ không dạy lớp chín cũng được mời dự. Buổi họp được tiến hành ở chái đầu hồi căn nhà nam.
- Tôi và một số đồng chí đã qua gặp ông Mộ. Đó là một dạng người khó hiểu. Ông Mộ chủ trương huấn nhục cho con trai mình để tập đức tính vâng lời, chấp hành vô điều kiện mọi mệnh lệnh, sai bảo. Đó là biện pháp của quân đội ngụy trong các trung tâm huấn luyện tân binh. Tân binh ngụy phải chấp hành mọi mệnh lệnh cho dù phi lí nhất, như bọn chỉ huy bảo ăn cả nạm ớt cũng phải ăn, bảo nằm phơi nắng cũng phải nằm, để chúng bảo nhảy vào lửa, vào cái chết cũng nhảy … Quân đội ngụy man rợ ở điểm này, nhưng chỉ huấn nhục trong một tuần lễ. Ông Mộ lại kéo dài từ nhiều năm nay. Hộ chỉ là nạn nhân. Hộ đã méo mó về nhân cách, nhân tính. Ông Mộ còn sỉ nhục công khai, thậm chí bắt một thanh niên mười sáu tuổi cởi áo quần, đeo bảng kể tội chạy khắp xóm, khắp thôn. Ông ấy hơn cả Mao nữa! Tôi không hiểu sao Ban An ninh xã chưa bắt tù con người độc ác ấy. Chỉ có một cách cứu Hộ như vậy … Vấn đề hiện nay là tại sao đồng chí Huyện lại nhục hình Hộ?– Anh Giảng nhìn Huyện –. Đồng chí hãy trình bày rõ. Các đồng chí khác cho ý kiến đóng góp.
Huyện gầy đi rõ rệt sau tám ngày đêm trăn trở. Anh nói với giọng hối hận:
- Tôi chưa hề đánh học sinh lần nào, cũng chưa dùng một từ nặng nề có tính lăng mạ học sinh … Tôi biết tôn trọng nhân phẩm các em, giáo dục các em lòng tự trọng, với phương châm của Bộ Giáo dục và các đại học sư phạm, “tôn trọng kết hợp với yêu cầu cao”, “biến quá trình được giáo dục của học sinh thành quá trình các em tự giáo dục”. Tôi có học kĩ giáo dục học của cách mạng. Nhưng tôi nghĩ đến cái tát và lần Ma-ka-ren-cô (Makarenco) rút súng lục dọa bắn một học viên trường thiếu niên phạm pháp. Lần ấy, nhà giáo dục vĩ đại này bất ngờ, làm sai nguyên tắc của chính ông ta, nhưng lạ thay, lại thành công. Tát tai người khác, dẫu học sinh, cũng vi phạm nhân phẩm và tự do thân thể. Rút súng là giết người chứ không phải dạy người, cải tạo người. Tuy răn đe, song răn đe bằng súng lục, là hành vi của kẻ “yên hùng”, chứ không phải của nhà giáo. Tuy nhiên, như đã nói, lần sai lầm nghiêm trọng ấy của Ma-ka-ren-cô lại là lần thành công lớn. Học viên ấy được thuần hóa ngay, y trở thành một học viên tốt đến kinh ngạc. Tôi nghĩ, lấy “yêng hùng” trị “yêng hùng”, “dĩ độc trị độc”. Tôi đã độc ác một cách đau lòng để trị bệnh độc ác ở Hộ. Hộ đã chai lì, méo mó nhân cách mất rồi. Tôi đang chờ kết quả. Cái sai lầm của tôi là chưa thông qua Ban Giám hiệu và các giáo viên bộ môn về cách xử phạt sai nguyên tắc này trước khi thực thi. Đó là cái sai của tôi. Chưa “hội chẩn”, đã cho “phương thuốc độc bảng A” với “liều lượng” quá mạnh.– Giọng của Huyện run lên, anh ngừng bặt –.
Lộc Biếc đưa tay xin phát biểu. Cô hơi bối rối một lúc.
- Tôi phản đối đồng chí Huyện.– Cô nói –. Sỉ nhục bằng cái tát là quá mức, càng không thể sỉ nhục bằng cách bắt học sinh quỳ, lạy, nhổ nước bọt và máu vào tên họ. Quá phi nhân!– Cô ngập ngừng –. Tôi đau lòng dùng hai chữ “phi nhân” ở đây. Chúng ta đang chống chủ nghĩa Mao. Mao đã vấy máu và bùn vào chủ nghĩa Mác. Chúng ta là nhà giáo Việt Nam, không thể như Lê Long Đỉnh, Lê Long Việt được. Phải lấy sự tôn trọng nhân phẩm học sinh làm đầu. Phải “lấy chí nhân mà thay cường bạo”.
Huyện lắc đầu, im lặng. Mười mấy nhà giáo cũng im lặng suy nghĩ. Huyện ấp úng:
- Tôi hiểu tất cả các nguyên lí, phương châm giáo dục. Dạy người chứ không phải dạy thú. Dạy thú còn phải lấy chữ “nhân” làm đầu. Nhưng tôi chỉ thử nghiệm, theo Ma-ka-ren-cô.
Khoai nói sau khi được phép phát biểu, giọng từ tốn:
- Tâm lí con người không phải là cỗ máy. Các cỗ máy cùng loại, cùng kiểu đều giống nhau. Mặc dù các nhà tâm lí học đã khái quát được quy luật tâm lí chung nhất của loài người, nhưng xét vào đối tượng cụ thể, tâm lí con người không ai giống ai, lại rất bí ẩn. Người ta vẫn không hiểu vì sao Ma-ka-ren-cô lại thành công ở trường hợp đó! Liệu Hộ với “liều thuốc” của đồng chí Huyện có trở thành tội phạm tày trời hay không, làm sao lường được! Tôi có dạy toán lớp chín, tôi thấy em ấy không phải là học sinh không thể học được như Nhi. Hộ chỉ bị bệnh nhân cách do ông bố. Tôi nghĩ “phương thuốc” đã có, như đồng chí Giảng đã nói. Vô cùng đơn giản, ấy là bắt tù, cải tạo ông Mộ, hoặc cách li ông Mộ khỏi Hộ. Với yêu thương, trân trọng, Hộ sẽ khỏi căn bệnh méo mó nhân cách. Đó là biện pháp an toàn nhất, có tiên lượng tốt thấy rõ trên lí luận. Tôi tin trên thực tiễn, biện pháp ấy hữu hiệu như đã thấy qua lí luận.
Anh Giảng nói:
- Vậy thì phải đề xuất với Ban An ninh xã và Công an huyện Công, sau khi xin ý kiến Phòng Giáo dục. Còn về cái tát và hành vi rút súng, đúng là Ma-ka-ren-cô thành công một cách khó hiểu.
- Có thể học viên ấy thích kiểu “cao bồi” thoáng hiện ở Ma-ka-ren-cô!– Nam nói, hình như anh lập phản đề –.
Mọi người cười ầm. Không khí nghiêm túc bỗng nhộn hẳn.
- Tôi nói không phải để khôi hài.– Nam lại nói –. Phải chăng học viên ấy bị thu phục bởi nét “cao bồi” của nhà giáo dục vĩ đại? Bị thu phục rồi, nó trung thành tới chết, và nhà giáo dục đã có được điều kiện thuận lợi cơ bản, đầu tiên để cải huấn nó? Tâm lí con người cụ thể là một cõi bí ẩn, không ai giống ai, như đồng chí Khoai nói. Ma-ka-ren-cô tình cờ chạm được cái chốt, ngẫu nhiên nhặt được chìa khóa của tâm lí học viên ấy. Và phép mầu đã diễn ra, diễn ra với yêu thương, trân trọng, chứ không phải mãi mãi trước họng súng. Không ai kè kè họng súng sau gáy học viên mãi được, như thế chỉ phản tác dụng … Khi tốt, nó sẽ tốt cả lúc một mình, cả trong tư tưởng, tâm hồn. Đấy mới là mục đích của sự giáo dục. Trân trọng, tôn trọng, yêu thương và yêu cầu cao sẽ chiến thắng, sẽ vững bền … Con người chai lì, không biết xấu hổ, không biết nhục nữa, sẽ độc ác thế nào, như Hộ đối với Nhi, chúng ta đã biết … Rồi chúng ta còn biết những gì nữa với sự làm nhục, huấn nhục dài ngày, dài năm của con người đối với con ngươi, như ông Mộ đối với con trai của ông ấy!– Nam ngừng lại –.
Ka Kring đưa tay xin phát biểu. Nam ra hiệu cho anh được trình bày ý kiến còn dở dang:
- Tuy nói vậy, tôi vẫn thấy ở khía cạnh khác nữa. Đó là, học viên ấy vốn bất trị, nhưng y chợt bị chấn động mạnh, bởi y thấy một nhà giáo trước giờ vẫn nhẫn nại yêu thương, nhẫn nại tôn trọng, bỗng nổi giận. Học viên ấy bị xúc động tận gan ruột trước sự nổi giận của yêu thương, sự nổi giận của lòng tôn trọng con người. Học viên ấy đã tâm phục từ lâu, mà cái tát và hành vi rút súng của nhà giáo, chỉ là cái cớ để sự tâm phục chuyển hóa thành một chất khác. Do đó, như tôi và các bạn ở đây suốt tuần lễ nay suy nghĩ, góp ý với đồng chí Huyện, rằng căn bản vẫn là “lấy chính nghĩa mà thắng hung tàn, đem chí nhân mà thay cường bạo”, là rất nhân và thật nghĩa, là rất yêu thương và thật tôn trọng con người. Nghĩa còn là lẽ phải, là chính nghĩa của mục tiêu giáo dục …
Ka Kring rạng rỡ hẳn vì thấy Nam hợp ý mình:
- Vấn đề là giải pháp. Bây giờ giải quyết thế nào để đồng chí Huyện và cả em Hộ không lâm vào cảnh khó xử.
- Cả em Nhi nữa.– Hoán nói –.
Anh Giảng suy nghĩ với vẻ mặt lo âu. Anh Quỳnh đưa tay:
- Tôi có ý kiến. Về tính chất, vụ này rất nghiêm trọng, có thể liên quan đến tòa án. Một cuộc phạm luật dây chuyền, từ ông Mộ đến Hộ rồi Nhi, và khốn thay, lại đến đồng chí Huyện …– Giọng anh Quỳnh dạo này mệt mỏi hẳn –. Cho nên, đồng chí Huyện nên có cách nào đó cho ổn.
- Động cơ đồng chí Huyện vẫn là giáo dục, tuy biện pháp đã vi phạm nhân quyền, nhân phẩm, vận dụng Ma-ka-ren-cô sai lệch.– Lụa nói –.
Bỗng dưng, anh Quỳnh thở phào kín đáo. Đồi Hương vẫn cắm cúi ghi chép biên bản. Có lẽ, hơn ai hết, Lộc Biếc, Khoai, Nam và Ka Kring rất lo ngại cho Huyện. Họ đã bàn với nhau suốt tuần nay, nhưng trong cuộc họp, có nhiều khía cạnh mới nảy sinh. Huyện ngồi yên, như muốn gượng lại sự suy sụp tinh thần. Gương mặt anh hốc hác, mắt thâm quầng vì mất ngủ.
- Đồng chí Huyện có năng lực chuyên môn tốt, có điều công tác chủ nhiệm hơi lơi lỏng … Lớp chín lại là lớp cuối cấp. Tôi đã phân vân từ giữa học kì một … Chẳng lẽ cứ thay đổi chủ nhiệm hoài …– Anh Giảng ngập ngừng –. Thôi, các đồng chí nghỉ giải lao mười phút, suy nghĩ thêm, sau đó chúng ta họp lại.
Trong lúc những người khác đi hút thuốc lào, ra ngắm chuồng thỏ, nhìn các chú ong bay đi, bay về nơi các thùng gỗ thông treo vào vách gỗ đầu hồi, phía trên tấm bảng ghi lịch công tác, thông báo, hoặc ngắm trời, ngó đất, những người bạn trẻ lại bàn bạc với nhau.
Trở lại cuộc họp, anh Giảng đề nghị mọi người đề xuất cách giải quyết cho ổn thỏa.
- Tôi xin phát biểu trước.– Huyện hơi mất bình tĩnh –. Nói thật, tôi rất đau lòng cho chính tôi. Một giáo viên như thế thật đáng khiển trách nặng, như bị sa thải khỏi ngành, thậm chí, bị truy tố trước pháp luật. Song tôi chả hiểu vì sao lại chợt phạm khuyết điểm ấy. Có thể do tôi bực bội đã lâu về Hộ, do bức xúc vì phong trào thi đua của lớp chín quá kém … Tôi chưa hết mình …, thiếu kinh nghiệm, và cái chính là vận dụng kinh nghiệm Ma-ka-ren-cô một cách máy móc, ngu dốt, không “hội chẩn” với nhóm giáo viên chủ nhiệm, bộ môn … Bản thân Hộ là một trường hợp khó … Tôi không ngờ tôi lại phi nhân đến vậy! Tôi rất nhục nhã cho chính tôi.– Huyện cúi đầu suy nghĩ –. Tôi nghĩ, không có biện pháp kỉ luật nào là xứng với lỗi của tôi. Tuy nhiên, trước mắt, tôi xin viết kiểm điểm, xin lỗi em Hộ và em Nhi trước lớp chín, xin lỗi cả lớp chín và các đồng chí nữa, như con người trước con người. Không phải tôi hạ mình, sợ bị sa thải, tòa án xét xử, mà trên tinh thần tôn trọng Con Người, mặc dù là học sinh … Mọi sự tiếp theo, tôi phải cam chịu trách nhiệm, dẫu phải đi tù.
Nghệ rươm rướm nước mắt. Anh vốn là người ít nói, giờ càng không nói gì. Những gương mặt dự họp bỗng cùng một cảm xúc với nhiều nét biểu lộ khác nhau.
- Phải bằng mọi cách giải minh vụ này. Nguyên nhân sâu xa là ông Mộ.– Khoai vẫn ngầm giữ ý kiến phải truy tố ông Mộ, cách li ông Mộ ra khỏi Hộ, hoặc tìm điều kiện cho Hộ thoát li –.
- Tôi đồng ý như vậy. Xin lỗi học sinh không phải là nhục nhã. Hãy xem đó là biện pháp có ý nghĩa giáo dục, nhằm thể hiện tinh thần bình đẳng về nhân quyền, giữa con người với con người. Xin lỗi học sinh để giáo dục học sinh là tốt, sẽ có tác dụng phục hồi ý niệm nhân phẩm cho Hộ, cho Nhi, và giáo dục cả lớp chín, lẫn lớp tám, lớp bảy nữa …– Nam nói –.
- Chúng ta không ngụy biện để bào chữa cho đồng chí Huyện. Nhưng bản chất sự vụ đã rõ. Tôi đồng ý với đồng chí Huyện, đồng thời, sẵn sàng gánh vác trách nhiệm chủ nhiệm cho đồng chí ấy. Tôi vốn là phó chủ nhiệm lớp chín, dạy ngữ văn lớp đó.– Lộc Biếc nói –. Đồng chí Khoai cũng giúp cho một tay.
Ka Kring đưa tay xin phát biểu. Anh Giảng gật đầu mời cô.
- Tôi cũng không bao che cho đồng chí Huyện. Chúng ta đã quan tâm đến đồng nghiệp, cần lưu tâm hơn em Hộ và em Nhi. Hậu quả nào sẽ xảy ra cho hai em học sinh của chúng ta, đó là điều cần lưu tâm trước nhất. Tôi cũng thấy, xin lỗi hai em đó, cả lớp chín nữa, là cấp bách. Giáo viên xin lỗi học sinh trên tinh thần tôn trọng con người, không phải là hạ mình, mà tự nâng mình lên một tầm cao nhân bản. “Phương thuốc” này hữu hiệu nhất, với Hộ, Nhi cùng các em khác. Không nên chần chừ việc xin lỗi.
Nắng chiều đã dần tắt. Những con ong vẫn còn cần mẫn với các chuyến bay đi, bay về. Anh Giảng đợi các ý kiến khác, trong khi Đồi Hương đã mỏi tay với biên bản, đang duỗi các ngón bên cây bút, cạnh cuốn sổ biên bản to tướng, bọc bìa đen.
- Tôi muốn ém vụ này, đừng để đến tai chính quyền, Chi bộ và Phòng Giáo dục, Công an huyện. Nhưng một học sinh biết, là sẽ có nguy cơ! Bản án cho đồng chí Huyện sẽ còn treo lơ lửng đâu đó đến cả năm, bảy chục năm sau! Nhìn tầm xa sẽ thấy vậy. Vả lại, nhà giáo phải trung thực. Tôi cũng đồng ý với các đề xuất: kiểm điểm, xin lỗi học sinh, cách chức chủ nhiệm, và cả thông báo cho Ban An ninh xã về trường hợp ông Mộ cùng các giải minh về sự vụ. Tôi đề nghị thêm, đồng chí Huyện phải giữ nhiệm vụ phụ tá cho cô Xinh về thư viện. Các đồng chí cứ suy nghĩ thêm. Kì họp Hội đồng tháng này sẽ tiến hành sớm vào tối mai. Chúng ta lại bàn sự kiện này rồi lấy biểu quyết. Nếu không ai có ý kiến gì nữa, chúng ta vào chái sau ăn tối. Tạm nghỉ. Cô Đồi Hương vui lòng đọc lại biên bản.
Ở cửa vào phía hông chái sau, Nam thấy chú mèo đực ngồi dưới đất chăm chú nhìn đàn ong bay đi, bay về. Chú mèo liếm mép, đảo mắt liên tục. Nam không cười được nữa với hình ảnh dễ thương, ngộ nghĩnh ấy, anh đang lắng nghe.
Lộc Biếc, Khoai, Ka Kring và Nam ngồi nán với Huyện, san sẻ niềm hối hận, nỗi âu lo của anh. Thấy dưới hộc bàn mấy chiếc đũa Lụa dùng để tập đánh trống ếch cho đội trống Đội Thiếu niên Tiền phong, bất giác Huyện rút ra. Năm chiếc đũa tình cờ trên bàn tay anh. Huyện bẻ gãy một chiếc. Bỗng dưng, Huyện chảy ràn nước mắt. Hai dòng nước mắt chảy ròng trên gương mặt bất động đang chói ửng màu tía trong ánh nắng đỏ ối hắt vào. Rút khăn tay, anh lau nước mắt, có lẽ chỉ là nước mắt tủi nhục, hối hận vì “màn kịch” phi nhân của chính mình. Năm người im lặng xót xa.
Họ vào bàn ăn tập thể. Anh Quỳnh đang so đũa. Trên bàn, vẫn bo bo “bọc nhựa” xay nhỏ, canh rau và cá khô kho.
Sau cuộc họp Hội đồng phân hiệu bất thường tối thứ ba, ngay sáng thứ tư, Huyện vào lớp chín với Ban Giám hiệu, bí thư Chi đoàn, thư kí Công đoàn, cùng thư kí Hội đồng, nhờ sự đảo tiết, lấy tiết lí của Hoán đầu buổi làm tiết sinh hoạt lớp, còn tiết sinh hoạt cuối buổi sáng thứ bảy sắp đến sẽ được Hoán dạy bù. Các giáo viên có chức vụ này đã được bố trí người dạy thay.
Huyện đã xin lỗi Hộ và Nhi, hai học sinh cá biệt chậm tiến của anh, xin lỗi cả hai mươi mấy học sinh lớp chín, một cách thành khẩn, cảm động. Anh Giảng nói ý nghĩa giáo dục của sự xin lỗi với các em, rồi cùng Huyện bắt tay em Hộ, em Nhi. Hộ lẫn Nhi trào nước mắt. Lần đầu tiên Hộ khóc. Hộ đã biết khóc!
Cả lớp chín ngồi chết sững. Các em chưa bao giờ thấy thầy giáo, lại là thầy chủ nhiệm, thầy hiệu trưởng, xin lỗi, bắt tay học sinh với ý nghĩa rất nhân quyền như thế. Một vài em ấp úng, khóc khi phát biểu. Nhiều em cúi mặt xuống bàn khóc rung cả vai, bật thành tiếng nấc vì xúc động.
Hộ đã biết khóc!
Huyện cảm thấy lúc này, công an có đến còng tay anh, anh vẫn mãn nguyện, bởi Hộ đã biết khóc!
37
Buổi chiều, nắng mùa này đang bắt đầu gay gắt. Bên sân nhà anh Ruộng, bóng râm những cây mít bắt đầu có trái bói, những cây trứng gà đã trổ bông trắng rụng đầy làm rợp mát vài khoảng đất được nện chặt, bằng phẳng. Giữa sân, nắng vẫn chói chang.
Anh Ruộng đọc lại lí lịch, đơn xin kết nạp vào Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của một số giáo viên, nhân viên, trong đó có Hạ, Hoán, K’Đa, Nam, Khoai … theo sự gợi ý của chính anh. Trong thực tiễn sinh hoạt, công tác, họ thật tốt, nhưng về nguyên tắc, thủ tục, anh Ruộng e rằng họ khó được suôn sẻ. Anh Ruộng trầm ngâm suy nghĩ về họ, về chuyện đời rắc rối.
Chị Huân vác xà bất từ rẫy về, sau lưng chị là một gùi mây nặng khoai sắn. Anh Ruộng giật thót mình khi thấy bóng vợ. Dạo này, chị Huân cứ dấm dẳn mãi với anh. Không biết ngoài nguyên nhân là cái bàn thờ gia tiên, còn có nguyên nhân gì khác. Anh Ruộng vẫn hi vọng, nguyên nhân khác nếu có cũng ở ngoài gia đình này. Có thể, do trong công tác Hội Phụ nữ, chi Huân cau có chăng. Có thể, trên nương rẫy, chị Huân va chạm với ai cũng vì bờ đất, trái bí, củ khoai gì đó chăng. Anh Ruộng vốn yếu về sức khoẻ, quen nhịn vợ. Song nhịn luôn cả sự đả phá một cách máy móc về việc thắp hương, thờ cúng gia tiên theo truyền thống thì không. Chính nhờ sự đả phá của chị Huân về vàng mã … (chỉ là mấy tờ giấy tiền, in các xâu tiền cổ, mấy tờ vàng bạc, in các thỏi vàng, thỏi bạc, với mấy xấp áo binh được cắt theo kiểu tượng trưng, cả tấm bản đồ thế giới – nhân loại có hình Tổ quốc – dân tộc, hôm trước Tết anh đã mua về, ngồi cặm cụi tô màu, rồi dán lên vách cuối bàn thờ). Phải rồi, chính nhờ sự đả phá của vợ, anh Ruộng mới có dịp ngẫm nghĩ sâu hơn.
Anh Ruộng nhớ hôm “liên hoan” ở nhà bà Tặng trong học kì một. Hôm đó, anh hơi ngán tiếng dao dằn dỗi bập vào thớt của bà trực tính ấy. Hôm đó, Nam đã gỡ rối cho cả bàn. Anh Ruộng thấy Nam chí lí, tuy chí lí một cách bất chợt để đối phó. Nhưng đâu chỉ hôm đó, mấy chục năm nay, nhất là ba năm gần đây, sau Ngày Giải phóng – ừ, trọn bốn năm rồi chứ, sắp kỉ niệm ngày trọng đại ấy rồi –, anh Ruộng nghĩ, chuyện cái bàn thờ, chùa chiền, đình làng, nhà thờ Chúa, thánh thất các thứ, cứ rắc rối mãi!
Chị Huân bước vào nhà, lại gần bàn anh Ruộng đang tì tay suy nghĩ, rót nước, uống ực một hơi. Anh Ruộng giật thót người, im lặng.
- Tôi viết đơn li dị rồi đa nghe! Ông không vứt mấy cái đồ vàng mã đó, ai đi đường nấy.– Chị Huân ỷ mình tuy đàn bà nhưng là trụ cột gia đình, người nuôi sống cả nhà, vô hình trung thành gia trưởng, nên giọng chị rất quyền uy –.
- Gì mà li dị! Cái bà này! Ba đứa con tuổi ăn, tuổi học, rồi ra sao! Đụng một tí, doạ, hai tí, doạ. Thôi, rửa ráy cho mát mẻ chút đi. Nóng quá trời nóng.– Anh Ruộng đấu dịu –.
- Không nóng, không lạnh gì hết á! Theo Đảng bao năm, giờ “theo đuôi” quần chúng. Cơ hội để theo đóm ăn tàn bọn “phục quốc” hả ông? Rồi họp Chi bộ, tôi biết ăn nói làm sao!– Chị Huân rút khăn vắt vai lau miệng –.
- Bà đảng viên, bộ tôi không đảng viên sao! Chính hồi chống Mỹ, tôi giới thiệu bà vào Đảng chứ ai. Còn cái vụ vàng mã này là cái hiếu. Cái hiếu phải cụ thể như vậy, để dạy sắp nhỏ. Bà hiểu rồi mà. Tôi là thương binh, sức khoẻ yếu, nay còn vầy, chứ thêm dăm tuổi nữa, con cái nó hiếu với tôi chỉ bằng nước miếng thôi, thì còn ra cái quái gì!
- Tôi cũng nói với ông rồi: còn có cái con Huân này nè. Ông chết trước tôi chớ bộ. Ông đừng nuôi con theo cái kiểu đầu cơ, đầu tư sinh lợi gì đó. Nuôi con để hòng nó nuôi lại là dở rồi …– Bỗng chị Huân chùng giọng vì thấy việc con cái phụng dưỡng tuổi già cha mẹ, ông bà cũng phải! –. Còn, còn …
- Còn gì cứ nói luôn đi. Tôi thuộc bài của bà rồi, nhưng vẫn để bà nói cho hả. Nói đi bà!
- Thôi, tôi không nói nữa. Chi bộ sẽ kiểm điểm là mê tín, phí phạm giấy má trong khi học trò thiếu giấy để học. Cứ thờ cúng riết rồi duy tâm ráo trọi!
- Tôi đốt vàng mã bao giờ! Cái bà này! Đặt trên bàn thờ cho nó đẹp, lại là giáo cụ trực quan để dạy chữ hiếu cho sắp nhỏ. Đó cũng là bàn thờ Giống nòi, Tổ quốc, Nhân loại chứ bộ. Bộ bà không thấy hình bản đồ chữ S nước mình tôi tô đỏ hả bà?– Anh Ruộng bực mình, nhưng cố kìm chế giọng nói để chị Huân khỏi nổi cơn tam bành –. Thôi, nói lui, nói tới mấy tháng rồi cũng chừng đó, chán phèo. Đó, tôi cắt giấy thủ công hai chữ VO THAN dán ở hai cái cột hai bên rồi.
Chị Huân nói với cái lườm:
- Ông chửi tôi đó mà! Sao không thêm dấu?
- “Vô thần” hay “võ thần”, “vợ than” hay “vợ thân” gì gì cũng được, tuỳ người mà giải thích.– Anh Ruộng bỗng cười hích hích –. Bà chưa chịu sao? Thờ cúng một cách vô thần, duy vật chớ còn gì nữa … Thôi, thôi, tôi đi đây có việc chút đã nghen! Nói hoài, nói hoài, quá chán!
Anh Ruộng cố nhịn, và cũng khá giỏi nhịn. Anh đem mớ đơn, lí lịch cất vào cái tủ gỗ tạp luốc nhuốc xỉn màu. Đút chìa khoá vào túi, nhưng sợ mất dọc đường, anh lại móc vào cái đinh trên cột gỗ, chỗ quá đầu người.
Bước ra cửa, anh càu nhàu như một đứa trẻ:
- Li dị! Li dị! Mở miệng là đòi li dị!
Anh cắm cúi bước nhanh ra đầu ngõ, rồi mới thong thả bước. Có điều anh cũng chẳng biết đi đâu vào giờ này! Sờ tay lên đầu, anh sực nhớ là đã quên đội mũ. Nắng quái chiều hôm còn gay gắt trên những mái tôn, trên đường đất ba dan đỏ. Anh chợt nhớ, lẩm bẩm, đúng như hệ luận từ một câu ngạn ngữ, ai làm chủ kinh tế, cũng làm chủ gia đình! Anh Ruộng ngơ ngác chẳng biết đi đâu! Lớ ngớ một lúc, anh tự an ủi, vợ anh chỉ làm tàng thế thôi, chứ bà ấy thương anh lắm. Anh Ruộng tự nhủ thế, rồi lại bước vô nhà. Sực nhớ, anh lại bước ra, đi tìm ba đứa nhỏ đang mải chơi bên hàng xóm. Anh Ruộng bước, lạnh lưng với ảo giác về cái dao sắc thái thịt huơ lên ở đâu đó đằng sau anh. Dũng sĩ thế nào được với kẻ chém lén! Và chết lãng xẹt! Anh Ruộng hiểu anh linh hoạt thế là thông minh, chí lí. Anh đã đến ngõ hàng xóm. Bỗng anh kiên quyết hẳn. Không. Thờ cúng phải thành tâm! Hiếu nghĩa mà không thành tâm như những điều tâm niệm thì còn ra thể thống gì! Tất nhiên thành tâm suy nghiệm, tâm niệm, trước tổ tiên ông bà trong gia tộc đã khuất cũng như trước lịch sử dân tộc, lịch sử nhân loại (vốn có thăng trầm, vinh nhục), không phải là duy tâm!
Thằng út của anh reo lên, gọi anh bằng biệt danh mới:
- Ba VỠ THẬN đây rồi! BA đổi tên PHẢI rồi hở ba?
- Không đùa!– Anh Ruộng gắt khiến thằng bé cười oà –.
Anh Ruộng mắng con nhưng đầu óc lại nghĩ cách đối phó với vợ. Anh lẩm bẩm: “vô thần, vãn thần” là “võ thần, văn thần”, hay … thế này cũng được, “vợ than van thân”, cho bà ấy vui!
38
Hồi chiều, Ban Thiết bị của Phòng Giáo dục huyện Công hợp đồng với Hợp tác xã Xe ba bánh chở vào mấy chục bộ bàn liền ghế do Quỹ Bảo trợ thiếu nhi (UNICEF.) của Liên hiệp quốc tặng. Trên sân nhà tập thể giáo viên, bàn ghế học sinh xếp như một lớp học ngoài trời. Một số khác được đặt trong chái đầu hồi.
Đêm nay, trăng sáng ngời. Trăng vẫn bát ngát, sáng vằng vặc, tuy không lạnh đến buốt như hồi mùa đông khô ráo, hồi mùa xuân đẫm hương hoa cà phê, hoa chè nữa. Trăng cao nguyên tuyệt vời mặc dù gần đến cao điểm mùa khô. Trăng tuyệt vời, đúng. Khoai muốn ngàn lần, mãi mãi được ngợi ca trăng cao nguyên.
Lúc ngồi với các bạn, tì tay lên mặt bàn còn thơm thơm mùi vẹc ni, âm ẩm sương đêm, Khoai cứ ngẩng mặt nhìn trăng. Anh nhớ Lí Bạch ôm trăng chết đuối trên sông.
ngẩng đầu nhìn trăng sáng
cúi đầu nhớ quê xưa! (42)
Khoai cũng nhớ làng Thuận Xá ngoài Quảng Trị xa lắc. Tuy nhiên, thật với lòng mình, Khoai nhớ nhiều nhất, nhớ say nhất vẫn là người anh yêu dấu thầm lặng đang gần gũi anh. Lộc Biếc xinh đẹp một cách trí tuệ, ngồi trước mặt anh, bên cạnh Huyện. Dưới ánh trăng, cô gái nào cũng trữ tình, duyên dáng hẳn. Giá như đừng có mặt trời với ánh sáng thô bạo, tàn nhẫn, cõi người ta này sẽ bớt đi sự bất công của trời đất – Khoai từng nghĩ vậy. Nhưng mặc nắng chói chang, Lộc Biếc vẫn đẹp. Dưới trăng, cô ấy còn đẹp biết chừng nào! Đêm nay, các bạn ngắm trăng, chuyện trò gẫu với nhau, riêng Khoai bỗng trầm ngâm thương nhớ một người anh chỉ với tay là chạm đến. Và Khoai buồn, ngồi lặng lẽ.
Một lát, anh bước vào nhà, sau khi bấm khẽ Hoán, Cam Ly, Đồi Hương. Khoai đành cam lòng dành trọn cho Lộc Biếc và Huyện đêm trăng với các bộ bàn ghế làm lạ hẳn khung cảnh quen thuộc này!
Ở dãy bàn ghế bên kia, nhóm của Ka Kring và Nam. Họ đang hát hò, ngâm thơ. Một lúc, Suối Vui, Trăng Thu, Lá Xuân, Đoá Xuân cũng rút lui một cách tế nhị. Cả bốn cô giáo này không vào nhà tập thể. Họ rủ nhau đến nhà một phụ huynh khá thân với các cô.
Khoai, Cam Ly, Đồi Hương ở hai gian nhà hai bên văn phòng nhìn ra sân trăng, bỗng mỗi người đau một nỗi cô đơn riêng. Hai đôi bạn đang chuyện trò giữa sân trăng, như dưới ánh đèn sáng trắng trong một giảng đường đã vãn, các bạn bè sinh viên đã ra về hết, chỉ còn lại họ. Họ hơi ngượng khi thấy chỉ còn lại hai đôi nam nữ. Cả bốn người đều hiểu ý các bạn của mình. Lộc Biếc định vào nhà luôn, song ánh trăng huyền ảo trữ tình kia như kìm giữ cô lại bên người bạn trai cô đã cảm mến. Dạo này, Huyện cứ mãi tự giày vò về vụ “phi nhân” với một niềm ân hận không nguôi, khiến anh gầy đi, lơ láo hẳn, y hệt kẻ mất hồn. Lộc Biếc thấy thương thương thế nào ấy. Cô hơi kinh sợ lúc hình dung hình phạt độc ác của Huyện, đồng thời không thể không thương một người đã hiểu ra, đã hối hận, âu lo đến thế. Đôi lần, Lộc Biếc muốn chăm sóc cho Huyện như một người mẹ, người chị cả, chẳng hạn nấu cho anh bát cháo gạo. Và như một người bạn, cô muốn an ủi anh, bàn với anh cách phục hồi lòng tự trọng, ý thức về danh dự cho Hộ. Cô cũng muốn bảo với anh, Nhi đã hết sợ hãi Hộ rồi; Nhi cũng chưa có ý thức đạo đức về sự nhục nhã bởi bị Hộ lạy, chỉ có cảm xúc mơ hồ, bất giác tủi thẹn thế thôi, nên cô đã hình thành ý niệm cho Nhi. Có điều, cô hiểu đâu là giới hạn cho phép. Dưới ánh trăng đêm nay, tình thương từ bản năng người nữ trong cô khiến Lộc Biếc xao động.
- Anh Huyện có nhớ nhà không?– Cô hỏi khẽ và ngọt –.
Huyện gật đầu:
- Mạ anh mới gửi thư vào.
- Mạ biết chuyện vừa rồi không hở anh Huyện?
- Kể làm gì. Anh đâu còn con nít. Chuyện ấy đúng là phút điên rồ! Khi không nhục hình học sinh!
Huyện thở dài. Lâu nay Huyện chỉ chinh phục Lộc Biếc như thói quen của chàng trai được lắm cô gái săn đón. Huyện thấy anh không bao giờ yên lòng được nếu có cô gái nào dám lơ đễnh khi gặp anh. “Đến, thấy và chinh phục”, là phương châm của tên tướng, gã vua thực dân nào xa xưa ở châu Âu, đã tự bao giờ thành phương châm yêu đương của anh. Có đến hai mươi cô gái say anh đến suýt chết, nhưng Huyện chỉ để thoả mãn cái tôi của chính anh! Chinh phục được, lòng Huyện nản ngay, chỉ đùa cho cô gái mới xiêu lòng vì anh, quay quắt buồn nhớ. Riêng với Lộc Biếc, Huyện cũng nản lòng, có điều không phải nản vì thắng, mà nản vì bại. Bảy tháng, bằng mọi thủ thuật chinh phục, anh không cách nào thắng được trái tim cô. Anh hiểu Nam và Khoai chứ, do đó anh có nể bạn, chưa ráo riết chinh phục lúc đầu. Rồi về sau, anh tự ái, tự ái bởi Lộc Biếc, nên Huyện bất chấp tình bạn. Huyện định thắng rồi sẽ rút lui! Huyện chưa nói với ai ý định của anh, một ý định đáng trách … Huyện lại thở dài. Lần đầu tiên, anh đã bị cảm hoá, không thể vẫn là mình được nữa. Anh lại bị cú sốc “phi nhân”. Lộc Biếc là nguyên nhân phụ hay chính để anh trượt chân vào cú sốc độc ác ấy?
Huyện vẫn đau một niềm đau nhói nhói bởi Lộc Biếc.
- Lộc Biếc! Khi không buồn quá phải không? Cảm ơn em nhiều nghe. Có lẽ anh sẽ qụy mất nếu không có Lộc Biếc.
Ánh trăng và giọng Đà Nẵng pha Huế dịu ngọt của Huyện khiến Lộc Biếc cảm động. Cô chớp mắt, nhìn lãng ra phía những khóm sả ướt sương.
- Lộc Biếc!– Huyện gọi thầm thì –.
Cô run lên, cơ hồ âm thanh mới phát ra từ môi Huyện chạm khẽ vào tim cô.
- Dạ.– Bỗng Lộc Biếc buột miệng như một cô gái bé bỏng –.
Lộc Biếc quên mất cô chỉ sinh sau Huyện vỏn vẹn tám tháng trên cõi đời này.
Với kinh nghiệm đã thành bản năng nhạy bén, Huyện hiểu anh đang bước dần đến chiến thắng. Lộc Biếc cũng mơ hồ hiểu, chính sự mủi lòng, trước vẻ hốc hác do hối hận rất nhân tính của Huyện, đã khiến niềm cảm mến của cô thêm sức nặng, làm trái tim cô trĩu xuống. Nỗi kinh sợ của Lộc Biếc về Huyện hầu như tan biến mất. Với kinh nghiệm, Huyện nhìn vào đôi mắt đen láy ngập ánh trăng của Lộc Biếc. Anh đang thôi miên cô, trước khi gắn vào đôi môi cô nụ hôn “á phiện” của anh. Nhưng Nam và Ka Kring đang ngồi bên dãy bàn ghế bên kia! Hai cánh cửa phía sau lưng đang hắt ra hiên ánh đèn dầu! Huyện cảm thấy hơi lúng túng.
Lộc Biếc vội trấn tĩnh lại. Cô hết hồn, chỉ chút nữa thôi, ở khung cảnh khác, làm sao cô có thể cưỡng chống. Ngay từ đầu, cô đã muốn bỏ vào nhà. Cô giận Nam quá. Sao Nam dám gần gũi Ka Kring, dần xa lánh cô! Bằng trực giác, cô hiểu Nam và cả Khoai nữa! Cô biết làm sao được! Ngồi với Huyện thế này, có phải cô muốn “trả thù” Nam? Trong tâm hồn Lộc Biếc có những khúc mắc khiến cô đau lòng. Cô cũng không thật rõ mình. Ánh trăng cùng ma lục trữ tình dễ đẩy người ta sống khác với lòng mình chăng?
Lộc Biếc sực nhớ bài thơ “Cái tát của đoá sen hồng”, thuở mới vào đại học, cô chép được trên một tờ báo. Bài thơ ấy bảo cô tát vào mặt Trường, người cô trót một thời yêu … Cô đâu ngờ lại có dịp gặp tác giả! Nguyễn Trần Nam, tên anh, kí bên dưới bài thơ đã trở thành kỉ niệm riêng của cô, cái tên cô sực nhớ, lúc cùng trên xe từ Đà Lạt về Công, đầu năm học, với anh ấy, với Huyện và Khoai. Sau này, đọc bản thảo của anh, cô đã chắc hẳn điều đó, cố giữ kín kỉ niệm riêng của mình. Đời có những ngẫu nhiên đến kì lạ! Đôi khi, cô nghĩ giữa cô và Nam như có duyên số thế nào ấy. Trong lần về nghỉ Tết vừa rồi, Lộc Biếc càng thấy rõ điều này. Bạn học năm lớp hai ở trường Quốc Anh, láng giềng hồi tấm bé, lại là kẻ đã bằng thơ của mình ngăn Trường hôn cô! Cơ hồ “ông trời” đã dành Lộc Biếc cho Nam, Nam cho Lộc Biếc tự phôi thai. Cứ ngỡ như trong một thoáng huyền thoại! Huyền thoại bỗng dưng lại có thật!
trả anh nụ hôn cưỡng đoạt
má rần bỏng vết sen hồng
em khóc, nhìn anh ngơ ngác
tay hương lả cánh buồn không? (43)
Chẳng hiểu sao Lộc Biếc không muốn nghĩ Nam đã tự phê phán và đã cảm phục cô gái nào đó của anh trong bài thơ ấy. Vâng, bài thơ xinh xắn viết giúp cho nhân vật chàng trai nào kia của Nguyễn Trần Nam vang vọng trong trái tim cô. Bốn dòng chữ như được in bằng một thứ mực với các tinh thể giãn nở, đã nổi lên trong trí nhớ Lộc Biếc, bởi ngọn lửa thiện tâm, lúc này, khi ngồi bên Huyện. Ánh trăng! Ánh trăng trữ tình suýt làm hỏng Lộc Biếc! Cô muốn vụt chạy vào gian nhà nữ. Lộc Biếc lại nhìn qua Ka Kring và Nam. Họ như hai sinh viên trong một giảng đường vắng! Lộc Biếc muốn ngồi với Huyện chút nữa, bởi cảm thấy chả nên đột ngột bỏ vào như thế.
- Lộc Biếc này!– Huyện khẽ khàng –.
- À, anh Huyện!– Chẳng biết nói gì, Lộc Biếc hỏi vu vơ –. Xứ Huế của anh, phong kiến, và là xứ sở của chùa chiền phải không? Trữ tình, trí thức nữa?
- Ừ, nhưng cũng tuỳ người, tuỳ gia đình.– Huyện chợt hiểu Lộc Biếc khiêu khích anh, cho anh còn rụt rè, chưa dám quên đi giáo điều “bất thân” giữa nam với nữ –. Nhà anh đâu có cho rằng con gái phải ít học hơn con trai, chẳng hạn … và cũng tự do yêu đương …
Huyện nói, cùng lúc nắm lấy Lộc Biếc đang đặt trên bàn. Anh chỉ kịp có cảm giác mát lạnh hơi sương, cô đã rụt tay về. Lộc Biếc nhìn qua Nam bên cạnh Ka Kring. Cô bỗng giận mình ghê gớm.
- Em vào nhà đây!
- Thôi, anh xin lỗi. Ngồi chơi một chốc nữa đã.
Lộc Biếc ngồi dang ra. Cô nuối tiếc gì, sao còn ngồi đây! Lộc Biếc chẳng rõ. Huyện có một sức hút lạ lùng!
Lộc Biếc nhìn lên vầng trăng mười bảy. Cây đa thần in một vết nhơ mờ mờ trên vầng trăng sáng ấy. Cô giật mình nhớ đêm trung thu đầu năm học này. Đêm đó, Lộc Biếc đã liên tưởng đến cổ tích chú Cuội – cô Hằng và nỗi nhớ trần gian của Xen Tếch (Saint-Ex[upery]). Lộc Biếc cũng giật mình khi nhớ Huyện mơ làm nhà bào chế hoá dược. Chẳng lẽ rồi Huyện sẽ ích kỉ như chú Cuội để Lộc Biếc phải làm cô Hằng tội nghiệp mãi mãi xa cách trần gian? Ích kỉ là cô độc, dẫu hai người, dưới gốc đa thần dược!
Huyện vẫn đang hiểu nhầm Lộc Biếc! Anh những muốn bàn ghế này có đôi cánh, vỗ nhẹ để đưa cả anh lẫn Lộc Biếc đến một nơi hoang vắng. Trên cánh đồng yêu đương, sẽ nở rộ muôn ngàn nụ hôn “á phiện”, đoá hôn “ma tuý” … Huyện bỗng rúng động trong giấc huyền thoại, khi hiểu ra, căn nguyên sâu xa dẫn anh đến hành vi nhục hình học sinh là những nụ hôn hạ nhục các cô gái đã mê muội anh. Anh chỉ mới dám đùa bỡn với các đôi môi trinh bạch, nhưng rõ ràng anh quen sỉ nhục một cách thích thú và khoái lạc các cô gái yêu anh, bằng cách đó. Quen làm nhục các cô gái, nên anh bất giác đã làm nhục Hộ bằng cách bắt Hộ quỳ gối, khạc nhổ lên tên họ và giấy trắng học trò những bãi nước bọt hoà máu từ kẽ răng? Huyện rùng mình sợ hãi, ghê tởm chính anh. Liên kết lại các nguyên nhân sâu xa, Huyện thấy mình đang trôi theo lô gích của lòng hối hận, ăn năn tận đáy tâm thức.
Huyện nấc khan như muốn trào một hòn máu bầm ra khỏi miệng. Lộc Biếc chừng linh cảm điều gì, cô hoảng hốt chạy vào gian nhà nữ. Các cô giáo ngồi quanh cây đèn dầu đặt trên bàn, ngạc nhiên nhìn Lộc Biếc, rồi nhìn ra Huyện, lặng lẽ, cô độc ngoài sân. Ôi, may sao chỉ là những nụ hôn “ma tuý”!– Huyện thầm bảo, cúi gục đầu –.
Ka Kring đang ngồi bên Nam trên chiếc ghế dài gắn liền với bàn viết học sinh, bông đùa, đọc thơ và chuyện trò phiếm, khác chi hai sinh viên trong giảng đường vắng, bỗng thấy Lộc Biếc đi nhanh vào nhà. Cô thấy đêm chưa khuya, song cũng bất tiện. Ka Kring chào Nam. Với áo váy thổ cẩm Tây Nguyên, cô bước vào gian nhà nữ, y như một sơn nữ mới bước ra từ thần thoại hiện đại của cao nguyên đỏ.
Đêm đó, một đêm nữa trong nhiều đêm Lộc Biếc tự hỏi lòng mình: Thật sự trái tim hai mươi bốn tuổi, kể cả một tuổi trong lòng mẹ, đang rối nhịp sau vòm ngực cô, đã và đang yêu ai?
Đêm đó, lại là một đêm xao xuyến, thao thức nhất của Ka Kring – hoá thân của dòng suối Đạ Nga trữ tình.
Nằm đắp chăn trên chiếc chiếu ở tầng hai, tầng giường phía dưới là Lộc Biếc, Ka Kring nhìn mái tôn ướt đầm sương đêm. Có lẽ hơi nước, từ nền đất, từ gió đã đọng lại không những phía bên trên của mái tôn, mà cả phía dưới, trong nhà nữa. Sương chảy leo theo sóng tôn. Đôi khi, có hạt sương lạnh buốt rơi trên chăn, trên giáo án. Cô mở mắt, rồi lại nhắm mắt, nhớ lại vầng trăng của những gì Nam cùng cô đã nói với nhau.
Lúc Suối Vui, Trăng Thu, Lá Xuân và Đoá Xuân chào Nam, Ka Kring để đến nhà phụ huynh ở xóm trung tâm, Ka Kring biết có dịp tốt để đùa vui với Nam. Cô thầm cảm ơn bốn người bạn gái của mình đã rất biết điều với nhau. Ka Kring suýt bật hai tiếng “cảm ơn” nhưng kịp kìm lại. Với Ka Kring, tế nhị với nhau là phải thế chứ! Hãy biết nhân danh Trái tim Yêu đương để chúc lành cho Yêu đương chứ! Và rất hồn nhiên, Ka Kring lại nói: “Trăng tuyệt vời quá, anh Nam thấy không? Trăng dành cho những hai người yêu nhau trên trái đất. Anh Nam đâu phải là thi sĩ, mà tu sĩ!”. Ka Kring thấy Nam cười. Chiếc kính cận trên sống mũi anh lấp lánh. Nam bảo: “Em đúng là sơn nữ của huyền thoại mới. Em mở ra trong mắt anh một cái nhìn rất mới. Nhân tộc Kinh không ban cho anh cái nhìn đó. Anh đâu ngờ người nữ lại tuyệt vời như cung cách Ka Kring. Em giúp anh hiểu một phong cách nữ rất tương lai của nhân loại. Nhân loại, trong đó có sắc tộc Kinh, còn lâu mới vươn tới được phong cách đã được giải phóng như Ka Kring!”. Ka Kring cười khanh khách: “Đừng tán tỉnh để gạ gẫm nhé!”. Nam cũng bật cười: “Ka Kring đang đứng ở địa vị bình đẳng của phụ nữ, sánh với nam giới”. “Lại nịnh ư, ông nỡm?!”.– Cô nói –. “Thật ra, tục bắt cái chồng của nhân tộc K’Hor, và của nhân tộc Chiau Mạa em là cổ … Em bắt cái chồng theo mệnh lệnh trái tim em … Và em có thể thất tình, dám khóc lớn nỗi thất tình ấy theo cách của em. Anh Nam có nỡ lòng nào để em thất tình không? Không yêu em sao?”. Nam cười: “Thú thật, ban đầu nghe Ka Kring nói thế, anh run rẩy, rồi ngỡ Ka Kring xem anh là trò đùa. Anh vừa vui, vừa đau. Cảm giác mâu thuẫn này trong lòng anh, anh lần đầu nếm trải”. Ka Kring hỏi ngay: “Anh không tin em yêu anh thật sao? Ka Kring muốn bắt cái chồng là anh Nam thật mà”. Nam cười. Ka Kring để ý thấy, nụ cười của Nam dần tắt. Nam xúc động, như một lần Nam đã nói ở suối đá, Nam thầm biết ơn cô gái lai Ka Kring chăng, sao nét mặt Nam lại ưu tư! Ka Kring khẽ bảo: “Anh Nam nhớ người yêu cũ ư?”. Nam lắc đầu: “Thật lòng, có rất nhiều khi Ka Kring chiếm lĩnh cả tâm hồn anh đấy. Ka Kring là một sơn nữ mới và lạ. Ngày xưa, anh hát “Sơn nữ ca” của Trần Hoàn, cái ông nhạc sĩ tài hoa, người Quảng Trị, anh cứ nghĩ đùa, ông ấy muốn “Sơn nữ ca” phải ôm trùm cả cõi “trần hoàn” thế gian này kia đấy. Anh không thể nghĩ sơn nữ anh gặp lại là em. Em có phong cách sống rất nhân loại thật đấy. Em rất Thái, rất Mường, rất Ê Đê, rất K’Hor, rất Chiau Mạa, rất Đa-ghét-x-tan (Daghestan) của Gam-da-tốp (Gamzatov), rất Hi Mã Lạp sơn …”. Ka Kring mỉm cười: “Anh Nam mung lung quá. Có thật em chiếm lĩnh cả tâm hồn anh không? Sao mình không yêu nhau?”.– Ka Kring xúc động đến nghẹn ngào –. Cô chỉ muốn hỏi thẳng và mong Nam nói cho cô hay. Nam cứ nhìn trăng, nhìn ra các đồi trà sương khói nhuốm trăng, các mái tôn lấp loáng trăng bên K. Ka Kring chẳng biết anh nghĩ gì. Có lần, cô nghĩ Nam e ngại cô là cô gái lai. Mặc cảm lai Tây là điều có thật trong xã hội vốn là nạn nhân của thực dân, đế quốc Âu – Mỹ. Cô đâu ngây ngô không hiểu điều đó. Vả lại, cô biết, phần lớn người châu Á không có gốc du mục. Đa số là các dân tộc sáng tạo ra nền văn minh lúa nước, đi lên bằng nền văn minh lúa nước, định cư một chỗ tự lâu đời. Gốc chim Lạc thiên di đã quá xa vời ở người Kinh. Dẫu dân miền núi du canh du cư, cũng chỉ luẩn quẩn trên một địa bàn. Họ tránh yếu tố lai để tự vệ, bảo tồn nòi giống. Dân Âu, gốc du mục, đi xuyên các lãnh thổ, mặc dù cũng chống yếu tố lai nhưng có điều kiện dễ dàng để rồi sẵn sàng hoà huyết, hoà tộc. Cô biết, ngoại trừ bọn phát xít Đức, các dân tộc Âu – Mỹ không coi yếu tố lai giữa các tộc da trắng là quan trọng. Và ngoại trừ bọn phân biệt chủng tộc, khinh miệt da đen nửa đầu thế kỉ hai mươi trở về trước … Ngày nay Âu – Mỹ có khá hơn trong ý thức … Ka Kring hiểu Nam. Tuy nhiên cô lại thấy anh rất chan hoà với người K’Hor, Chiau Mạa thuần tộc. Cô quý Nam ở điểm đó. Có điều cô e rằng anh chưa vượt lên được mặc cảm vô thức để vươn tới lí tưởng – lí tưởng thường còn ở mặt nhận thức, chưa thành tình cảm cụ thể ở nhiều người. Ka Kring bâng khuâng buồn. “Anh Nam!”.– Ka Kring khẽ buột miệng –. Nam nói: “Anh mong Ka Kring nói gì cho ấm áp đi”. Ka Kring hơi run. Cô không ngờ cô lại buột miệng lần nữa với Nam: “Nếu em bắt anh Nam làm cái chồng, em triệt sản nhé”.– Ka Kring bỗng da diết với bản tính hồn nhiên của cô. Anh lắp bắp: “Ka Kring … nói gì thế?”. “Anh Nam yêu em, nhưng sợ có con cái lai phải không? Anh sợ có con da đen, da trắng chứ gì?”.– Ka Kring nghẹn ngào. Cô cắn chặt môi. Cô lại bụm tay vào mũi và miệng. Ka Kring không muốn bật khóc. Nam lạnh người. Ka Kring nói lên nỗi vướng mắc, dằn vặt của anh! Đó là sự thật của tâm tư Nam. Nam chỉ muốn hoà tộc trong phạm vi năm mươi ba nhân tộc Việt Nam thôi. Đó là nhận thức, tình cảm công dân, tình cảm thi ca và khát vọng hạnh phúc riêng tư của Nam. Yêu đương siêu chủng tộc, siêu quốc gia, Nam thật lòng thấy đẹp, song anh biết không thể. Anh sợ sự xoá nhoà nòi giống Việt Nam. Ka Kring cố gắng bình thản trở lại. Một lúc lâu, Ka kring nói: “Em chỉ yêu anh với khát vọng tình nhân, vợ chồng. Hạnh phúc, thôi thì chỉ thế. Em không cần hạnh phúc làm mẹ, làm bà! Được không Nam?”. Nam xúc động muốn khóc. Anh không ngờ Ka Kring yêu hồn nhiên mà sâu nặng đến thế, và quá chừng đau xót! Triệt sản ư? Tốt quá. Cũng hơi buồn! Họ Nguyễn Trần anh thừa con cháu nối dõi. Anh cần gì sinh con cháu đâu. Anh định gật đầu. Nhưng Nam thương Ka Kring. Sao Ka Kring không bắt cái chồng là ai khác, chứ không phải Nam, và người đó sẽ chấp nhận một lũ con đa chủng tộc do Ka Kring sinh ra, như hôm nào ở buôn B’Kẽh Ka Kring đã cười đau xót nói, lũ con ấy sẽ là đứa đen, đứa trắng, đứa vàng, đứa tổng hoà các sắc tố, đủ các màu da, với gien trội, gien lặn, ở các thế hệ, theo quy luật tự nhiên mà di truyền học đã đúc kết? Anh sợ cô nông nổi, rồi oán hận nhau sau này. Đúng là bất ngờ đến bàng hoàng. Ka Kring đã đưa anh cùng cô vào một tình huống để phát hiện ra chiều sâu ý thức, cả vô thức của mình. Chẳng lẽ anh tầm thường đến thế? Anh có “bệnh màu da”, phân biệt chủng tộc trong đáy sâu của tâm thức ư? Và Nam tự hỏi, liệu lời giải của bài toán di truyền học kia có đúng theo công thức, định luật thực nghiệm sinh học? Hay anh đã chấp nhận lời giải đó theo tâm lí học dân tộc, đặc biệt là tâm lí học nghiên cứu về dân tộc Việt Nam, một dân tộc phải thường xuyên tự vệ, bảo tồn nòi giống để tồn tại trước mọi âm mưu đồng hoá? Dưới ánh trăng, Ka Kring cố gắng đọc những ý nghĩ, cảm xúc của Nam qua cử chỉ, nét mặt, các câu nói chưa dám bày tỏ hết nỗi lòng của Nam. Nam thỉnh thoảng lại nhìn trăng, thoáng liếc sang dãy bàn ghế Lộc Biếc với Huyện đang ngồi. Ka Kring bỗng thấy Lộc Biếc ngồi dang ra xa, không dám ngồi gần Huyện như các sinh viên trong các giảng đường thường giữ khoảng cách vừa phải. Ka Kring nhạy cảm với điều ấy, cô hiểu Lộc Biếc đang tránh một nụ hôn! Ka Kring lại hồn nhiên mỉm cười. “Anh Nam”.– Ka Kring gọi khẽ tên người cô yêu –. “Hạnh phúc với em là vậy đó, và em sẽ là một cô giáo giỏi. Đơn giản thế thôi. Đơn giản mới có hạnh phúc, anh Nam à”. Nam nhìn cô: “Đúng, anh từng nói với Huyện và bạn bè, hạnh phúc là chọn chỗ đứng phù hợp với điều kiện của mình. Anh có cao vọng làm một nhà văn, nhà thơ cỡ lớn, nên anh khổ trong lao động nghệ thuật, song rất hạnh phúc bởi lao động ấy là lao động một mình …”.– Nam mỉm cười –. “Anh yêu Ka Kring biết bao! “Sơn nữ ca” của Trần Hoàn rồi sẽ được đặt lời hai. Lời một buồn, lời hai là hạnh phúc. Hồi nãy, anh chưa nói hết ý như vậy … Sơn nữ phải bắt cái chồng lữ khách miền xuôi để sinh con đẻ cái chứ!”.– Nam lại nhẹ giọng –. “Sao em không thuần tộc Chiau Mạa, hay chỉ lai các tộc trong nước nhỉ!”. Ka Kring vẫn khúc khích: “Anh ngốc thế nên khổ! Yêu em, em sẽ bắt cái chồng là anh, cưới anh. Em triệt sản. Hai đứa mình là “tình nhân” đến già. Không tuyệt sao, hở anh Nam?”. Nam ngẩn ngơ bởi ý tưởng rất huyền thoại, rất địa đàng với hạnh phúc trần thế mà nhiều người cố cải biên lại khác với Kinh thánh. Ka Kring lại ngây ngất trong vẽ vời tương lai: “Em sẽ vẽ tranh, dạy học. Anh mãi làm thơ, viết văn và dạy học. Hai đứa sống trong một ngôi nhà nhỏ xíu, có mảnh vườn xinh xinh. Thích không hở ngốc?”. Cô cười khe khẽ tuy muốn khanh khách cười cho bằng thích. “Em vẽ khá nhiều tranh rồi, anh biết không? Dạo sau này, màu dầu hiếm, em kí hoạ, vẽ bút sắt với màu nước …”. Nam cười, say đắm nhìn cô gái lai xinh đẹp lại giàu tưởng tượng: “Em tuyệt vời quá, sơn nữ ạ”. Nam muốn bày tỏ bằng một nụ hôn trên đôi môi Ka Kring bóng ánh trăng quyến rũ, nhưng anh nhìn ra xa, nao nao, bổi hổi. Hương tự nhiên rất da thịt trắng trong của cô gái lai như có hơi ấm, hơi ấm anh chỉ cảm nhận bằng ảo giác của niềm yêu ngây ngất. Ka Kring cơ chừng đọc được cả cảm xúc thầm kín ấy của Nam, hay cô chỉ tưởng tượng, cô cũng chẳng rõ. Ka Kring chợt thấy Lộc Biếc bước nhanh vào gian nhà nữ. Cô biết cũng đến lúc phải vào, để Nam cũng vào phía gian nhà nam, hai người hai cõi mộng mơ sau cuộc say trăng.
Ka Kring nhìn lên mái tôn đọng sương đêm. Ánh đèn dầu toả sáng lên, lóng lánh các dòng dương, hạt sương trên sóng tôn. Cô Phước đang đọc sách. Cô thấy Cam Ly suy tư, đang ngồi viết gì với vẻ mặt rười rượi buồn. Thư cho Hải chăng? Suối Vui đang mải mê, cần mẫn chấm bài. Suối Vui cứ vui một mình hoài sao?
Ka Kring chợt nghe tiếng gõ cửa mặc dù cửa vẫn mở hé. Cô thấy Huyện ló mặt vào, hốc hác, hốt hoảng, buồn khổ:
- Cô Phước ơi, cho tôi gặp Lộc Biếc một chút?
Ngạc nhiên, cô Phước bước ra:
- Có gì không, đồng chí Huyện?
- Cho tôi gặp Lộc Biếc. Xin lỗi, hơi khuya rồi …
Lộc Biếc bỏ chăn, mang dép, bước về phía Huyện.
- Lộc Biếc! Cho mình nói cái này một chốc thôi.
Lộc Biếc ngần ngừ. Cô mở cửa bước ra hàng hiên, ý tứ không khép cửa lại, để ánh sáng đèn dầu hắt ra bàn ghế ngoài sân. Đứng một bên cửa, trong khoảng tối, Lộc Biếc thấy Huyện chừng đang thảng thốt, khiến cô vừa lo vừa thương.
- Lộc Biếc!– Huyện không còn là anh trước đây nữa, đang lúng túng, bối rối, biết không đúng lúc, vẫn muốn nói điều gì đó –.
- Có chuyện gì không anh?– Cô hỏi rất khẽ –.
- Anh muốn nói, anh yêu em. Em đồng ý không?
Lộc Biếc sững sờ. Cô không tin Huyện đang đứng trước mặt cô. Lộc Biếc mở to mắt. Huyện đã thay đổi vậy sao? Cô ngần ngừ, rồi lắc đầu trước chàng trai thảm hại:
- Không. Em xin lỗi phải nói “không”.
Lộc Biếc vào nhà, vội lên giường, trùm chăn kín đầu, ứa nước mắt.
Cô Phước lặng lẽ đi ra, thấy Huyện mới quay lưng bước về gian nhà Nam. Cô nhẹ tay đóng cửa, sau khi nhìn ánh trăng đã mờ hơi sương ngoài sân, khẽ chép miệng. Cô cũng chẳng hiểu điều gì đã xảy ra! Cô Phước chợt nhận thấy, với chức vụ hiệu phó, cô bỗng dưng già đi đến mười tuổi trong nhà tập thể này, mặc dầu cô chỉ mới ở tuổi hai mươi hai!
Bên gian nhà nam, Khoai cũng vừa đóng lại cửa cho Huyện.
- Bình tâm đi thôi, Huyện ạ. Phải giữ sức khoẻ. Xa nhà, khổ lắm.– Khoai khẽ nói, với một nỗi buồn trong vắt như những giọt nước mắt trong thơ của anh, những giọt nước mắt suốt đời anh chiêm ngưỡng và dặn lòng mình luôn vươn tới –.
39
Đêm ba mươi tháng tư, bốn năm sau Ngày Thống nhất, tại phòng học lớp bảy, trước hai cây đèn dầu đặt ở bàn giáo viên là bốn cây đèn dầu khác đặt ở các bàn học sinh. Các giáo viên của Phân hiệu A cùng các phân hiệu trưởng, đoàn viên ở B, C, ở K đã họp mặt để kỉ niệm hai ngày lễ lớn trong năm, Ngày Giải phóng Miền Nam và Ngày Quốc tế Lao động. Đêm nay cũng là lễ kết nạp đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cho các đối tượng đoàn.
Dưới cờ Tổ quốc, giữa bảng đen là chân dung Bác Hồ. Hai bên ảnh Bác là cờ Đảng, cờ Đoàn Thanh niên Cộng sản.
Anh Ruộng mời anh Giảng, anh Quỳnh phát biểu cảm tưởng về hai ngày lễ lớn. Sau đó là nghi thức kết nạp. Trong sáu đơn xin kết nạp, chỉ có bốn đơn của bốn đối tượng đoàn được Huyện đoàn chấp thuận. Đó là K‘Đa, Hạ, Hoán và Trăng Thu. Bốn đồng chí trẻ đứng hàng ngang ở cửa ra vào, nhìn qua bàn giáo viên, chỗ bí thư Chi đoàn giáo viên đang đứng. Anh Ruộng đọc quyết định kết nạp. Tiếp theo, anh mới từng đối tượng đoàn tuyên thệ trước chân dung Bác Hồ, cờ Tổ quốc, Đảng, Đoàn.
… anh-téc-na-xi-on-na-lơ sẽ là xã hội tương lai …
… đấu tranh này là trận cuối cùng
kết đoàn lại, để ngày mai … (44)
Những tiếng hát vang lên từ phòng họp, trong ánh đèn dầu, trước màu cờ đỏ. Ngoài kia, chung quanh là bóng đêm.
Các đoàn viên mới bày tỏ cảm nghĩ. K’Đa bồi hồi, xúc động nơi giọng nói. Hoán cũng run run âm sắc. Hạ và Trăng Thu vừa khóc vừa phát biểu.
Ngồi dưới phòng họp, Nam cũng nổi da gà. Anh đã nhiều lần tham dự lễ kết nạp như thế này, trải nghiệm được cảm xúc chính trị với niềm chua chát riêng.
Buổi lễ cũng ngắn gọn. Nam tưởng đã kết thúc, toan đứng dậy, lại nghe anh Ruộng thông báo phần thứ ba của cuộc họp.
Anh Ruộng đọc quyết định khai trừ Huyện vì đã vi phạm kỉ luật ngành giáo dục nghiêm trọng: nhục hình, xúc phạm đến nhân phẩm học sinh. Huyện bước lên, trao trả thẻ đoàn viên, nói vài câu nhận khuyết điểm, chấp hành quyết định khai trừ. Huyện lạnh lẽo đi, đứng, nói như một người đã chết.
Sau khi dọn dẹp, bưng đèn bước lên nhà tập thể, Nam và Khoai thấy anh Ruộng ôm hộp đựng cờ, ảnh chân dung Bác Hồ có ý bước tới gần họ. Cùng bước đi một quãng, anh Ruộng nói với Nam và Khoai:
- Huyện đoàn đã gửi lí lịch hai bạn ra Quảng Trị để xác minh. Địa phương chứng thực là đúng, rõ ràng. Bí thư Huyện đoàn rà soát lại, thấy kẹt về nguyên tắc tổ chức Đoàn, nên đã hoãn … Mình cũng biết trước … Hoá ra sự nhận xét, giới thiệu của Chi đoàn cơ sở là vô nghĩa. Hai bạn thông cảm nhé.
Anh Ruộng đi vội lên phía trước.
Ka Kring vẫn sóng vai bên Nam, hồn nhiên nói:
- Hiện thực bi tráng của lịch sử cho ta “sáng mắt, sáng lòng”, nhưng giáo điều, nguyên tắc mù cả hai mắt và tối lòng. Hai anh viết đơn làm chi, em đã nói rồi!
Nam cười:
- Viết đơn đến lần thứ sáu rồi đó. Người ta bảo mình, mình phải viết. Bộ muốn “vô chính phủ” hay sao mà không viết! Bọn anh cũng biết rồi … Chúng ta không được tin dùng lâu dài!
Nam và Khoai vốn quen với cảm giác bị từ chối này, tuy thế họ vẫn tin văn chương của họ sẽ thuộc về vĩnh cửu trong khi tất cả các giá trị khác sẽ qua đi, tan biến … Dẫu sao họ cũng cảm ơn Đảng đã thống nhất được Tổ quốc, đã cho họ một lí tưởng để sống, để làm thơ, viết văn. Khoai cố đùa cho câu chuyện trở nên vui:
- Đảng đã mở đường cho thơ văn bọn anh, cho cả tranh của em đi đến vĩnh cửu mà, Ka Kring!
- Ừ, thôi, cứ nghĩ vậy …– Cô nhếch mép, cười buồn –.
Ka Kring im lặng, rồi cô lại nói, giọng lại vui vui:
- Đáng lẽ, Đoàn cũng như Đảng ở các cơ quan, trường học nên ẩn mình vào dạng mật vụ. Đó là một phương thức đã có thời áp dụng. Hiện nay, đó cũng là phương thức tế nhị, lại đỡ cồng kềnh.– Ka Kring lại cười khanh khách sau câu nói khẽ –.
Câu nói chính trị ấy, với Ka Kring, vẫn quá đỗi hồn nhiên!
Theo cây đèn dầu trong tay Nam, ba người bước đi trong đêm. Họ sực nhận ra, cứ mải nói chuyện, nên chỉ còn ba người giữa đêm vắng. Bốn bề là bóng tối. Nhà tập thể hé ra những khe sáng thẳng đứng trước mặt. Gió ban đêm cuối mùa khô vẫn lạnh buốt ở vùng cao nguyên này.
40
- Khoai ơi, đợi anh em cùng lên nhà.– Nam gọi –.
Tôi quay mặt, mỉm cười, chậm bước.
- Sáng nay, có “tiết mục” vui đấy.– Nam lại nói, khi đi cạnh tôi –.
Có một ngẫu nhiên thú vị ở thời khoá biểu, đặc biệt trong sáng thứ sáu hàng tuần như sáng hôm nay, sau hai tiết dạy đầu buổi, tập thể dục giữa giờ với học sinh xong, nhóm giáo viên bấy lâu được Lụa đặt tên là “Cộng sản cấp tiến” được nghỉ ba tiết cuối. Lộc Biếc, Ka Kring, Huyện và Nam đi hàng ngang cùng tôi trên con đường giữa hai khoảng dâu tằm. Vào tháng cao điểm mùa khô, lá dâu như chững lại, nom thưa thớt hẳn với nhiều lá già xanh đậm, lá non ít đi và cũng chóng già tuy chưa đủ độ lớn. Trên các cành, còn sót vài trái dâu tằm chín đỏ. Tôi vừa lơ đãng ngắm vừa hỏi:
- “Tiết mục” gì vậy Nam?
- Cà phê và rượu dâu, dâu hôm trước chị Lài hái đó.– Ka Kring đáp thay –. Em lấy một ít trái bỏ vào chai ngâm rượu cho đẹp –.
- Tập uống rượu sao, sơn nữ?– Tôi đùa –.
- Nhấp môi thôi. Chị Lộc Biếc cũng sợ rượu. Chủ yếu là dành cho các đấng mày râu các anh.– Ka Kring khúc khích cười –.
Dưới chiếc mũ rộng vành, nụ cười Ka Kring sáng và xinh. Lộc Biếc cũng cười rất duyên dưới vành nón lá. Quai lụa hồng màu hoa đào khiến gương mặt đẹp, trắng mịn của Lộc Biếc hồng hào thêm. Trong một thoáng nhìn qua, tôi liên tưởng đến một tứ thơ Đường.
- Nhưng có bánh quy mặn. Khỏi lo xót ruột nghe anh Khoai.– Lộc Biếc nói vui, nhắc tôi nhớ lần uống cà phê ở quán anh Trà dạo nào –.
- Ồ, quá cám ơn.– Tôi cảm động –.
Đứng lại ở vại nước trước cửa hông chái bếp, tôi múc nước xối nhẹ cho hai cô giáo rửa bụi phấn trên mấy ngón tay. Tôi cũng rửa rồi trao gáo cho Huyện. Tôi rảy hai bàn tay vào lá cây cà phê thấp cạnh đó, rút vuông khăn mỏng ra lau.
- Ở chái đầu hồi chứ?– Tôi hỏi –.
Lộc Biếc, Ka Kring đã đi vòng để ra cửa trước, quay mặt lại gật đầu.
Cánh nam chúng tôi đi vào cửa hông, qua chái bếp, phòng ăn tập thể, mở cửa hông bên kia để ra chái đầu hồi.
Những con ong mùa khô này, hình như phải đi kiếm mật hoa rất xa, tít tận rừng sâu nên có lẽ không đủ sức để bay đến nơi. Hoa ở vùng này chỉ còn độc nhất một loại, hoa khoai lang. Hoa khoai lang cằn cỗi mùa khô! Bốn đàn ong đã thưa dần. Ong chết đói dọc đường vì kiệt sức? Những con ong cần mẫn còn lại, hút mật quanh đây, phấn hoa khoai lang tim tím hai bên hông. Còn một, hai tuần nữa, trời sẽ chuyển sang mùa mưa, không biết ong có cầm cự được không. Ồ, trời mưa nhiều, ong còn mật đâu để mang về tổ! Vừa ngồi chờ Lộc Biếc, Ka Kring, tôi vừa nghĩ bâng quơ. Ừ, cũng có thể ván gỗ thông đóng thùng nuôi ong có một mùi khó ở với chúng chăng.
Nam rút ra một điếu thuốc thơm “Sài Gòn giải phóng”, tiêu chuẩn hai ngày lễ lớn còn lại, xoè diêm, nhả khói. Huyện cũng đánh diêm, đặt ngọn lửa vào đầu điếu thuốc lá, nheo nheo mắt. Huyện đã tươi tỉnh trở lại sau cú sốc “phi nhân”, cái lắc đầu nói “không” của Lộc Biếc.
Chúng tôi cùng cười vui khi thấy hai cô giáo bưng bình thuỷ, phin lọc và li.
- Phin lọc của chị Trâm đó. Lâu quá không dùng, mới cọ rửa lại.– Lộc Biếc nói –.
Tôi mở gói cà phê, cũng tiêu chuẩn hai ngày lễ vừa rồi, cho vào phin sau khi tráng qua nước sôi. Chỉ có hai phin lọc, nên cũng vừa lọc vừa nhấp môi như hôm ở quán anh Trà. Cà phê cũng tuyệt ngon.
- Hôm nay liên hoan mừng sinh nhật Bác Hồ sao?– Huyện mỉm cười, cái cười mỉm đã lấy lại phong độ phần nào –.
- Liên hoan trước! Mười hôm nữa mới tới ngày đó. Ngày đó lại cuối đợt thi học kì hai mất rồi.– Nam cười –. Giá như ngày nào trong năm cũng là lễ lớn cả thì cuộc sống lên hương.
- Bộ muốn tiêu chuẩn đại cán, đại táo hở ông tướng hồng quân X-tren-ni-kốp?– Ka Kring cười trêu –. “Chống tham ô lãng phí” (13) mà!
Huyện mở gói bánh có lẽ Lộc Biếc mới mua thêm ngoài quán, trong khi Nam chạy qua văn phòng mượn anh Giảng bộ ấm chén tiếp khách để cho trà hương ngâu vào, chế nước sôi cho trà ngấm sẵn.
Tôi chợt thấy cửa thư viện vẫn mở nhưng chị Xinh đi đâu mất. Huyện cũng vừa phát hiện điều đó. Anh hơi hoảng vì hiện nay anh là phụ tá cho chị Xinh. Huyện vội đi ra, nhìn các góc thư viện, ngỡ chị Xinh đang lúi húi kiểm sách ở các ngăn kệ gần nền. Cũng không có bóng dáng chị Xinh. Anh khép cửa, lắc đầu, đi vào chỗ chúng tôi đang ngồi.
- Kiểu này là mang hoạ vào thêm theo chị Xinh!– Huyện càu nhàu rồi cười –.
- Thư viện trường mình tí hon như cái chuồng bồ câu, nhưng có nhiều cuốn quý lắm đó. Những cuốn quý ấy lại mới keng!– Ka Kring nói –.
- Có ai đọc mà cũ! Ở Huế là hết vèo, phải móc ngoặc với các cô hàng sách mới mua được, hay chỉ có thể đọc tại chỗ ở thư viện. Chẳng ngờ cô Nhân lại mua được ngoài Đa Công!– Nam tặc lưỡi –.
Lộc Biếc gật đầu:
- Ở thành phố Hồ Chí Minh cũng vậy. Em thèm quá.– Cô cười trong lòng bàn tay –.
- Chỉ thấy mỗi K’Đa mượn đọc!– Huyện nói –. Hôm giúp chị Xinh mới biết.– Huyện bảo thế, lại hơi ngượng vì anh cũng chưa đọc mấy cuốn đó –.
- Anh K’Đa cảm phục Lộc Biếc lắm đấy.– Nam nói –. Chuyên môn sâu, các cuốn ấy của ngữ văn, anh ấy cũng đọc. Giá như mấy em học sinh K’Hor, Chiau Mạa đều cỡ như anh K’Đa thì tuyệt quá.
Ka Kring nguýt mắt:
- Bộ Ka Kring này tệ lắm sao?
- Lẽ ra, sơn nữ Tây Nguyên phải da bồ quân kia … với tóc đen, đôi mắt to, lông mi cong vút mới điển hình.– Nam nói chữa cho câu hồi nãy, lại một lần nữa bị hớ –. Anh đang viết thêm lời hai cho “Sơn nữ ca” của Trần Hoàn đó nghe.– Nam lại nói vuốt và đùa vui, mong Ka Kring đừng giận dỗi –.
- Tác giả bỏ tù anh Nam vì tội vi phạm bản quyền đấy.– Ka Kring cũng đùa lại, ngón tay chỉ chỉ với ý doạ –.
Nhấp một ngụm cà phê, Nam nói:
- Sửa lời kia! Nhưng … Ừ, đặt ca từ thứ hai, cũng mệt chuyện rồi. Thì sẽ xin phép được bổ sung cho ông trưởng ty vậy. Này nhé, lời một, chỉ một mình sơn nữ yêu thầm lữ khách, thấy thương quá. Thì đây, lời hai rất nồng ấm và hạnh phúc, người lữ khách với sơn nữ sẽ thắm thiết bên nhau để xây dựng buôn làng hiện đại, cực kì văn minh. Tình yêu vẫn là trước hết.– Nam chú thích thêm với nụ cười –. Tất nhiên ở đây là sơn nữ ngày xưa, đâu dám là Ka Kring!.
… sơn nữ ơi, đừng làm thắc mắc cho lòng khô cạn
từ nay nước mắt đầy vơi …
… sơn nữ ơi, làm chi cho đớn đau lòng
trong một thời gian rồi thương rồi nhớ …
Có lẽ “khúc mắc” xảy ra là vì trăn trở sắc tộc trong tình yêu đương. Tình yêu và sắc tộc là cả một vấn đề! Phải chăng là thế? Nhưng rồi, e hèm, lời hai của Nguyễn Trần Nam đây:
… sơn nữ ơi, tình mình thắm thiết xanh lòng không
cạn nghìn sau suối hát rừng thơ …
… sơn nữ ơi, lời em say trái tim này
say đượm nghìn sau hoài thương hoài nhớ …
Thấy được chứ?– Nam phấn khích vì cà phê và rượu dâu –. Mình xin tặng riêng lời hai này cho Ka Kring.
Ka Kring cười khanh khách, đỏ mặt:
- Xin cảm ơn, cảm ơn.– Đôi mắt nâu trong vắt đưới hai hàng lông mi của cô chớp chớp một ánh trữ tình hồn nhiên –.
Tình cảm này của Ka Kring bạn bè đều biết. Ở loại tình cảm nào cô cũng bày tỏ rất tự nhiên, không khép nép, dè dặt, kín đáo như người nữ sắc tộc Kinh, cũng không bạo dạn đến sỗ sàng như một phân số người nữ Âu – Mỹ thời nay. Cô yêu Nam hồn nhiên, trong sáng và công khai, công khai rất đáng mến, đáng mến vì chân thành. Với các cô gái Kinh, thể hiện tình cảm kiểu đó biết bao giờ mới được chấp nhận. Cách bày tỏ tình cảm của Ka Kring vừa mộc mạc, nguyên sơ, vừa tế nhị, cao sang.
Nam uống hết chung rượu dâu sau khi nhai trọn cái bánh quy. Anh như cảm được mùi rượu đỏ trong vắt trôi xuống cổ họng, từ tay mời của Ka Kring:
- Hãy tưởng tượng như xem một khúc phim diễn đạt khát vọng, mơ ước cháy bỏng của sơn nữ. Thế này, với cây đũa thần, Ka Kring gõ vào những nhà sàn dài B’Kẽh, các dãy nhà ấy liền hoá bê tông, với gạch men, mái ngói, có vách ngăn từng hộ. Mặt tiền mỗi hộ có cửa lớn, cửa sổ. Dưới cửa lớn, có cầu thang xây, có bồn hoa. Trong mỗi hộ có máy truyền hình, máy hát, bàn ghế, giường tủ … Sau căn hộ là nhà bếp, phòng vệ sinh … Dân cứ B’Kẽh, với đũa thần, sẽ có trình độ tối thiểu là lớp mười hai … Ka Tem, K’Bri và các em khác là kĩ sư, bác sĩ (y sư), giáo viên … K’Bẻo, với đũa thần, sẽ trở lại là chàng trai da nâu, nâu như thuở mới lọt lòng đến tám tuổi, với sức vóc, trí tuệ tuyệt vời. Tất cả đều biết quốc tế ngữ, ngoại ngữ. Về sản xuất, tất nhiên với đũa thần, sẽ công nghiệp hoá nông nghiệp, cả các nghề thủ công. Được như thế, đúng là một cộng đồng Chiau Mạa hiện đại, văn minh …
- Phim đang chiếu trong đầu mỗi người, theo lời bình của Nguyễn Trần Nam. Còn gì nữa không?– Lộc Biếc nói, như được thôi miên –.
- Còn chứ.– Ka Kring đáp với đôi mắt xa vời –. Ka Kring với đũa thần của mình, sẽ trở thành một Ka Kring da nâu cho vừa ý lữ khách Nguyễn Trần Nam.
Ka Kring nói phớt tỉnh, khiến mọi người cùng cười như nắc nẻ. Huyện rất thú vị:
- Sơn nữ Ka Kring da nâu, mắt to rợp bóng mi đen, mái tóc đen mượt, tâm hồn cởi mở, phóng khoáng, trí tuệ rộng và sâu, lại có tài vẽ tranh rất mực tuyệt vời! Trời đất ơi, chỉ cần thay làn da, màu tóc chứ mấy! Ồ, như thế mới đúng là sơn nữ Đạ Nga, cô gái miền núi của dòng suối chảy ở dưới chân ngọn đồi kia.– Huyện đưa tay chỉ –. Như thế mới hợp ý Nguyễn Trần Nam!
Đúng vậy, một sơn nữ thuần tuý Việt Nam như thế mới là người trong trái tim Nam. Nam bỗng trầm lắng lại sao phút bông đùa:
- Mơ thì dễ, nhưng thực hiện khó lắm. Ngay việc học, cũng phải có truyền thống lâu đời. Đâu dễ dàng gì “nhảy vọt” từ phương thức du canh du cư của công xã thị tộc lên chủ nghĩa cộng sản văn minh, dân chủ và nhân bản như dự đoán của Mác được. “Nhảy vọt”, thăng hoá kiểu đó, rõ là không kinh qua nhiều phương thức sản xuất, nhiều hình thái xã hội … K’Bri, K’Bẻo, Ka Tem và nhiều học sinh ở phân hiệu anh K’Đa không chịu học đấy. Truyền thống học hành chưa có bề dày!
Ka Kring cũng buồn bã gật đầu:
- Em về buôn của ba em ở Đạ Ân, thấy học sinh ở đó cũng không hiếu học. Còn cách sống nữa, họ sẽ rất lúng túng trong các căn hộ hiện đại, cách làm ăn, sinh hoạt hiện đại.
- Phải có máy truyền hình chiếu suốt ngày các bộ phim với cách sống như anh Nam mơ ước, trong các điều kiện sống lí tưởng ấy, về chính người K’Hor, Chiau Mạa với phong tục, tập quán cách tân, đậm màu sắc K’Hor, Chiau Mạa! Nói rõ ra, đó là những bộ phim do chính diễn viên Kinh, K’Hor, Chiau Mạa diễn xuất! Phim phải rất K’Hor, rất Chiau Mạa! Và như thế là điều kiện sống viễn tưởng hiện thực, chứ không phải viễn tưởng theo các loại sách về đĩa bay của các hành tinh khác, hoặc đến mức huyễn tưởng …– Lộc Biếc nhấp môi rượu, nên xem ra cũng “say” –.
Ka Kring tán thành:
- Đúng là các nhà mộng mơ! Phim điện ảnh hay tiểu thuyết dạng đó, không phải hiện thực chủ nghĩa. Phải khẳng định ở lời giới thiệu phim, ở trang nhất tiểu thuyết, đó là loại dự kiến! Đó là tác phẩm thuộc phương thức sáng tác hiện thực dự kiến.
Nam và tôi đã nhiều lần bàn với nhau về ý tưởng này.
Tôi quen thói tò mò của người viết truyện, song cũng hơi ngại khi hỏi Ka Kring về điều lâu nay tôi thắc mắc, lưu tâm:
- Quê Ka Kring ở Đạ Ân? Dọc đường quốc lộ Hai mươi phải không? Sao Hoán nói ở huyện lị Đa Công?
Ka Kring nhìn tôi, ngần ngừ một chốc, rồi nói luôn:
- Ba ruột của em người Chiau Mạa, lai Mỹ đen và Kinh. Trước đây, ông ở Đa Công, làm tài xế riêng.– Lần đầu tiên tôi thấy đôi mắt nâu trong vắt của cô thoáng buồn, khi Ka Kring ngừng lại –. Vâng, ba em làm tài xế riêng cho gia đình ông ngoại em. Ông ngoại em có một cô con gái tóc vàng, vì ông ngoại là người Pháp lai Nga, bà ngoại lại là người Tàu lai Nhật. Cô gái tóc vàng ấy là mẹ em đó. Mẹ em sống giữa huyện lị Đa Công, toàn người Việt, nên rất cô đơn. Mẹ em phải lòng ba em, mặc dù ông đã có vợ và vợ bị vô sinh. Sinh ra em, mẹ em phải theo ông ngoại về nước. Bà bỏ em lại ở Đa Công cho ba em! Bà không muốn mang em về Pháp! Sau vài năm, bà lấy chồng ở Thụy Điển.
Bỗng Ka Kring nghẹn ngào. Lần đầu tiên, tôi thấy cô buồn đến vậy. Tôi buột miệng xin lỗi cô. Ka Kring lắc đầu. Có lẽ cô muốn một lần tâm sự với bạn bè cho nhẹ lòng.
- Không sao đâu, anh Khoai!– Cô lau nước mắt bằng chiếc khăn tay –.
Tôi dè dặt hỏi, sau một lúc ngần ngừ, bối rối:
- Sao ba lại có trong mình dòng máu Mỹ da đen?
- Ông nội em là người Chiau Mạa lai Kinh! Ông nội là “lính mộ”, bị bọn thực dân bắt sang Pháp. Thế rồi trong thời gian ở Pháp, ông gặp bà nội là một cựu đảng viên cộng sản Mỹ, người da đen. Hai ông bà nội về sống tại Đa Công, đã mất rồi!– Ka Kring lại mỉm cười –. Bên ngoại em, mấy đời đều là đảng viên cộng sản quốc tế cả. Họ là các chiến sĩ quốc tế, hoạt động ở nhiều nước. Sau khi bị thương, ông ngoại em, người mang hai dòng máu Pháp và Nga, xin ẩn cư tại Việt Nam. Bà ngoại em, người Tàu lai Nhật, cũng là chiến sĩ quốc tế đấy.– Ka Kring lại cười –.
Tôi vẫn cố vượt lên sự ngại ngùng để tò mò hỏi:
- Nội, ngọai đều hầu hết là cộng sản quốc tế? Ồ, xem ra rất lạ và quý. Nhưng tại sao lí lịch lại khác?
- Khó bứt một người như mẹ Chiau Mạa ra khỏi cộng đồng lắm. Bà ấy bảo ba em phải trở về Đạ Ân. Bà không thể sống y người Kinh suốt đời được. Căn nhà, mảnh vườn ông ngoại Pháp - Nga em để lại, ba em phải bán cho một gia đình Bắc di cư, rồi gửi em cho họ nuôi từ năm em bảy tuổi. Gọi là bán, thật ra, gửi cả nhà, cả vườn, cả em cho họ. Ba em phải đưa mẹ Chiau Mạa về lại buôn làng ở Đạ Ân. Bà không thể sống ở Đa Công!
Tôi cảm thấy lí lịch của Ka Kring quá li kì. Nam có lần nào đó suýt hé ra cho tôi biết, song Nam lại giấu kín. Có lẽ Nam không muốn tiết lộ đời tư của người thương. Lúc này, Nam lắng nghe Ka Kring như thể lại nghe một huyền thọai có thật mặc dù anh đã nằm lòng. Lộc Biếc và Huyện ngơ ngác thật sự. Tôi nhẩm tính, trong trái tim Ka Kring có đến bảy dòng máu, nhưng chỉ có hai dòng máu Việt: Kinh và Chiau Mạa, còn lại là từ các tộc người ngoại quốc. Tôi cũng thấy Ka Kring tính huyết hệ theo phụ hệ, chứ không theo mẫu hệ như nhân tộc K’Hor, Chiau Maạ vẫn tính. Hóa ra, gia đình ông ngoại Ka Kring chỉ ẩn cư tại Đa Công, không phải là chủ đồn điển kiểu thực dân. Làm sao người ta phân biệt được một chiến sĩ cộng sản quốc tế vốn là thương binh ẩn cư (có nỗi phiền muộn riêng nào đấy) với các tên chủ thực dân da trắng khác, ở vùng cao nguyên bạt ngàn trà, cà phê này!
Chợt nghe tiếng kẻng của Hạ, Huyện hỏi:
- Tiết mấy rồi vậy?– Anh nhìn quanh –.
Tôi nói, ngỡ câu chuyện liêu trai, ma thuật, huyễn tưởng về lí lịch đã phải kết thúc:
- Tiết tư vừa hết. Bắt đầu tiết năm đấy.
- Mình có lần bảo Ka Kring là biểu tượng của tương lai rất xa, muôn vạn năm sau và vĩnh cửu mà!– Nam mỉm cười –.
Lộc Biếc gật đầu với nét mặt chân thành:
- Không tụng ca đâu, Ka Kring!
Ka Kring hồn nhiên cười khanh khách. Mọi ngươi cũng cười với cô.
- Em muốn sống với thì hiện tại, với những gì hiện có, thực có. Cái sẽ có và nên có quá xa vời. Khen thế là mỉa mai đấy nhé. Vấn đề là Ka Kring cụ thể, hiện thực bằng xương bằng thịt đây này.– Cô chỉ vào ngực mình –. Từ quá khứ cổ xưa bay tới sống với hiện tại cũng khó như từ tương lai muôn vạn năm sau bay về với hiện tại. Em ý thức sâu sắc điều này. Đôi khi, em buồn quá, dại dột nghĩ, mặc dù em vốn không thích tư tưởng bảo hoàng: Nên chăng, nghe lời bà mẹ tóc vàng, em sang Thụy Điển, sống giữa vương quốc dân chủ có vua, một nước đang quá độ từ phong kiến sang tư bản chủ nghĩa, nhưng rất hòa bình, rất thơ mộng ấy lại hay hơn ở Việt Nam. Mộng tưởng thì mộng tưởng lắm, có điều em sống rất thực tế.– Ka Kring lại mỉm cười nói –. Làm thơ hoài cổ, nhà thơ khó sống. Làm thơ viễn tưởng, nhà thơ cũng khó sống. Có rất nhiều nhà thơ gặp bi kịch, do tâm hồn họ như vậy.– Ka Kring bỗng buồn buồn, cố giấu cảm xúc bằng một ngụm trà hương ngâu thơm ngát, nhìn Nam –. Em nghĩ thơ anh Nam, trong đó, hiện thực với cái hiện có cộng với chút ít lãng mạn xã hội chủ nghĩa. Phải vậy không?
Tôi thấy Nam tránh cái nhìn của Ka Kring. Tôi biết Nam yêu thương cô gái lai này có điều vẫn lấn cấn điều gì đó. Làm sao không yêu một vẻ đẹp đa chủng tộc, đa sắc tộc như thế, một tính cách với tâm hồn như thế! Nhưng chắc đúng hơn là, trong tình Nam yêu, có thêm chút cảm phục, có thêm chút tình thương, thương nỗi lạc lõng, bơ vơ, có cha đó mà thực sự mồ côi, còn mẹ đó, song hai mươi năm chưa gặp lại một lần, không thể là K’Hor hay Chiau Mạa thuần tộc, không thể là Kinh nguyên huyết, không thể là thuần Nga, thuần Pháp, thuần Mỹ da đen, thuần Tàu hay thuần Nhật, và lí lịch đang mang là lí lịch giả, hoặc lí lịch cô vừa kể không thể là thật mà chỉ là một trò ma thuật, rất hoang đường, liêu trai, huyền hoặc, huyễn tưởng! Tôi và các bạn đợi Nam nói một điều gì đấy, nhưng anh im lặng.
Lát sau, Nam nhả khói thuốc, nhìn những sợi khói từ điếu thuốc trên hai ngón tay:
- Dòng máu vô nghĩa, lí lịch vô nghĩa. Không nên hẹp hòi đến mức quá quắt! Lẽ ra, cần phải mời các giáo sư, viện sĩ, nhà nghiên cứu khoa học ngoại quốc một trăm phần trăm ở các nước tiền tiến sang giảng dạy nữa kia! Huống chi chúng ta là người Việt sinh trưởng tại Miền Nam! Chúng ta chỉ là giáo viên thôi, chứ đâu có giữ chủ quyền dân tộc, đất nước, đâu có nắm trọng trách ở một địa phương … Mình thấy, cuối cùng vẫn là con người cụ thể, xương thịt cụ thể, tính tình, tâm hồn cụ thể. Quốc tịch của một con người chính là bản sắc dân tộc trong cách nghĩ, cách nói, cách cười, cách ăn, cách đi, cách đứng của người ấy. Ka Kring đồng ý không? Ka Kring là một người Việt (Kinh – Chiau Mạa) mới và lạ, nhưng rất thân thuộc, rất đồng bào.
Tôi thấy Nam không muốn nói điều sâu kín của lòng anh. Tôi rút một điếu thuốc lá, châm lửa, rít sâu khói vào lồng ngực.
- Mình có nhiều cái ước. Trong các điều ước, có một điều là xây dựng được một Đền thờ Tổ quốc tại đầu nguồn sông Bến Hải hay trên đỉnh đèo Hải Vân. Đó là Đền thờ Tổ quốc của năm mươi ba sắc tộc Việt Nam, trong đó vua Hùng chỉ là một biểu tượng thiêng liêng của sắc tộc Kinh, bên cạnh năm mươi hai biểu tượng khác của năm mươi hai sắc tộc đồng bào. Bình đẳng! Như thế là bình đẳng nhân tộc! Đền Hùng chỉ là nơi tưởng niệm các vị vua khai quốc đầu tiên trong lịch sử bốn nghìn năm. Việt Nam là một hiệp tộc quốc, như bao nước trên thế giới.
- Hiệp chủng quốc?– Huyện hỏi –.
- Không! Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ là dịch thoát từ USA. (45), một cụm danh từ không có nét nghĩa khu biệt. Nữ thần Tự do lẽ ra phải là một cụm tượng của ba chủng người: đen, vàng (gồm cả đỏ) và trắng!– Nam mỉm cười –. Hòa sắc ba màu: cà phê, sữa tươi, bánh quy nướng, với tỉ lệ bằng nhau, sẽ ra màu gì nhỉ, Ka Kring? Ka Kring là họa sĩ mà! Một màu nâu non có sắc hổ phách? Một màu gần như thế … màu người da vàng rám nắng …– Nam cố hình dung bằng óc, đôi mắt trở nên xa vời –. … màu kẹo ca-ra-men (caramen) … Màu da nào là tổng hòa và điển hình cho nhân loại?
Ka Kring đến bảng lịch công tác, nhặt một khúc ngắn phấn viết ở gờ dưới đáy bảng, về ngồi lại chỗ cũ, đặt khúc phấn ấy cạnh bao ni lông cà phê bột và mấy chiếc bánh quy nướng còn thừa. Bốn chúng tôi nhìn cô nghiền phấn trắng, bánh vàng, trộn với bột cà phê đen. Cả mấy anh em đều mỉm cười khi Ka Kring úp tay này để che tay kia đang trộn màu, tất nhiên chỉ là trộn đùa với một ít nước sôi từ bình thủy chế vào chén sành. Lát sau, cô mở tay ra, mỉm cười gật đầu. Trong tia nhìn của cô phóng về Nam, hình như có tiếng đùa yêu: “viễn tưởng!” hay “thực tế!”.
Nghệ không có tiết năm, anh đang lau tay, trong lúc cặp sách giáo khoa, vở giáo án cùng sổ điểm vào nách. Thấy chúng tôi, anh cười, quay vào gian nhà nam cất sách vở, rồi quay ra. Uống một ngụm trà, Nghệ nhìn vào tách pha màu.
- Vui quá nhỉ!– Nghệ thay lời chào –. Ồ, ca-ra-men!
- Bọn này bàn chuyện phiếm về các sắc tộc, chủng tộc. Chẳng hiểu sao lại xoay qua, xoay về chuyện này. Có lẽ say mộng mơ!
- Ở lớp bảy anh Nam làm chủ nhiệm, K’Bẻo, Ka Tem, K’Bri dạo này ít làm bài tập ở nhà đó!– Nghệ nói –. Mùa phát rẫy căng thẳng lắm, bọn nhỏ đó phải phụ giúp gia đình.
Nam thở dài:
- Mẹ Ka Tem lại sinh nở nữa! Tội nghiệp Ka Tem.
- Anh Quỳnh cũng phát rẫy, gầy rọp người.– Huyện hóm hỉnh –. Đèo bòng vợ con khổ thế đấy!
- Vợ con đùm đề, phải lo chứ!– Tôi cũng góp chuyện –. Thế là sắp thi học kì hai. Mười ngày nữa. Nhanh thật!
- Sắp về Sài Gòn lại rồi, thích nhỉ, Lộc Biếc?– Nam nhìn cô –.
Lộc Biếc gật đầu, mắt xa xăm. Huyện ngong ngóng chị Xinh, nhưng cô giáo quản thủ thư viện này vẫn đi đâu chưa về. Huyện bước ra thư viện, đóng các cửa sổ, đóng cửa lớn, bấm ổ khóa vào hai khuy sắt. Anh cầm chìa khóa vào, lắc đầu. Có lẽ chị Xinh đã về nhà, vọâi vã thế nào đã quên khóa cửa.
Chú mèo đực lại lững thững bước từ cửa chái sau ra. Nó nhìn nhóm giáo viên trẻ rồi lại bước thong thả ra sân. Tôi xua đi thoáng liên tưởng đến anh Trà trong óc. Ngoài sân, nắng ban trưa mùa này hầm hập nóng.
Những người bạn trẻ vẫn chuyện trò, chờ đến bữa ăn trưa.
Bất giác, tôi nhìn kĩ Huyện. Tuy mừng về sự bình phục của anh, tôi vẫn không ngờ anh chàng chóng tươi tỉnh lại đến thế. Ngã xuống, cố đứng dậy, đàng hoàng. Huyện không phải là người yếu đuối, ủy mị. Tôi cũng hiểu anh đã thay đổi nhiều. Biết nói gì, tôi đành mỉm cười với Huyện lúc Huyện vẫn nhìn thẳng vào Lộc Biếc.
41
Nhìn ra vạt đất bên kia lối mòn đã được các giáo viên, nhân viên làm sạch cỏ tranh, đánh luống lên vồng, rồi trồng khoai lang chuẩn bị cho năm học sau theo chỉ tiêu của Công đoàn trường, tôi sực nhớ một câu ca dao quê nhà:
thương ai rồi lại nhớ ai
mặt buồn rười rượi như khoai mới trồng!
và mỉm cười. Hai buổi lao động cải thiện mức sống sau kì thi học kì hai, gồm cả anh Giảng, cả Hạ, thật vui nhộn với lấm lem. Mưa đầu mùa xối xả những buổi chiều. Đất ba dan trơn trượt, nhầy nhụa. Lộc Biếc cũng cầm xà bất làm cỏ. Cỏ tranh có bộ rễ trắng phau, rất khỏe. Không làm sạch cỏ với rễ, trồng khoai xem như vô ích: cỏ tranh lên vùn vụt, lấp cả lá khoai, và rễ tranh đâm xuyên qua củ như đan! Lộc Biếc xuýt xoa vì bỏng rộp tay. Rồi cô cũng giành xà bất đánh luống, lại cắm dây khoai vào rãnh giữa vồng, lấp đất lại như ai! Tôi mỉm cười hình dung hình ảnh Lộc Biếc chiều kia, chiều qua. Công đoàn với Ban Giám hiệu lo xa. Riêng nhóm “Cộng sản cấp tiến” chúng tôi, không kể Ka Kring, không biết sang năm sẽ về đâu. Chúng tôi vừa muốn được lên cấp ba, bậc phổ thông trung học, để dạy đúng với hệ được đào tạo, vừa buồn buồn thế nào ấy. Chúng tôi sợ phải chia tay nhau, mỗi người về một trường. Ở tỉnh này, mỗi huyện chỉ có một trường cấp ba (trung học). Còn các trường ở Đà Lạt, chẳng mảy may hi vọng gì! Mỗi người về một huyện, xa nhau lắm.
Những luống khoai mới trồng kia dàu dàu thế nào ấy. Bao liên tưởng bâng quơ giữa nắng ban trưa thật vu vơ.
thương ai rồi lại nhớ ai
mặt tươi tắn nắng, thở dài gió trưa!
Đôi lúc phải đùa với mình một chút cho cuộc sống bớt buồn … Trước kì thi học kì hai, tôi thấy Nam trăn trở nhiều, và buồn. Đó là lúc anh Giảng thông báo viết đơn xin thuyên chuyển nếu có nguyện vọng. Chúng tôi đều viết đơn xin lên thành phố Trên Trời cao. Tôi cũng nghĩ Nam sẽ như vậy. Nộp đơn sau Lộc Biếc, Huyện và tôi, Nam lại xin vào xã Lộc Nam. Lộc Nam, một xã được phong danh hiệu “Xã Anh hùng”. Từ Bảo Nghĩa vào đó phải thêm mấy chục cây số nữa! Xã ấy, toàn dân đều là Chiau Mạa. Nam muốn vào đó để tích lũy thêm vốn sống. Suốt năm học vừa rồi, Nam mong đợi tin tức từ ông Võ Phả, anh Lê Phạn, anh Cao Hồng Thứ, xem thử có được chuyển về làm báo hay không, nhưng chẳng tăm hơi! Vào Lộc Nam, ở đấy chỉ có trường cấp một!
Hôm ấy, tôi hỏi Nam:
- Sao lại ngược đời vậy? Vào đó thế nào được!– Tôi can Nam –.
Nam cười, không rõ vui hay buồn:
- Để viết về người K’Hor, Chiau Mạa anh hùng!
Nam đưa cho tôi một bài thơ, anh viết hôm đạp xe vội qua B’Kẽh, nhắc nhủ, khuyên Ka Tem, K’Bẻo đi học lại sau mấy ngày bỏ học. Khác với mục đích lần đi, thơ là “Khúc vào mùa”:
rất vàng là nắng Tân Rai
chạm vào nhánh lá tràn vai nắng vàng
vác cây xà gạt, thênh thang
bàn chân lội nắng, nắng loang lối rừng
mùa mưa đã tới sau lưng
thơm vàng cái nắng là mừng cái nương
(ngày mai thóc chảy về buôn
như con lũ nắng trên đường đang đi)
chồi lên kín rẫy xanh rì
phát mau ta phát sá gì, nắng đun
mau bùng lửa, phơi tro mun
mưa tra hạt, mầm xanh phun, rộng dài
rất vàng là nắng Tân Rai
ngày mai gùi nặng đầy vai nắng vàng (46)
Nam đã thể hiện hình tượng cái tôi trữ tình trong bài thơ là một người nông dân Chiau Mạa, chứ đâu phải là thầy giáo Nam. Anh hoàn toàn nhập thân vào người nông dân Chiau Mạa điển hình. Đúng là nhà thơ nhân dân, biết quên đi “cái tôi đáng ghét” của mình!
Nam còn đưa tôi xem lại một bài thơ khác, “Ka Đum”, viết về một cô gái Chiau Mạa, vốn là du kích chống Mỹ, và rất tiên tiến trong những phong trào vận động nhân dân định canh định cư ở các buôn làng. Bài thơ này anh đã hoàn tất trước đây mấy tháng:
suối ầm ào trầm bổng giữa rừng trăng
tiếng trống tiếng cồng tưng bừng bên ngọn lửa
câu hát nồng nàn hương lúa
ché rượu nghiêng cả trời đất ngấm vào người
Ka Đum! Ka Đum! ngọn lửa mùa vui
lửa mãnh liệt, lửa cháy bùng dưới vầng trăng rực đỏ
lửa, lửa hồn nhiên như tiếng reo, lửa kiên tâm như ngọn lúa
lửa tỏa cao, từ trang sách sáng mặt người
đôi tay pạp mở lòng ra, vỗ nhịp liên hồi
thác rơi trên mặt trống nghìn năm âm hưởng mới
lồng ngực căng, rung
như cánh rừng bão nổi
cơn bão chói hồng, dậy từng đêm thao thức băn khoăn
Ka Đum! Ka Đum! cồng ngân sâu,
hương lúa ngút hơi trăng
tan trong câu hát ngày mùa,
trái tim này nghiêng vào lòng nọ
con mắt quay đi, con mắt nhìn chăm Ka Đum
như câu đố khó
đã ngời lên, lóng lánh giọt rượu vui
ơ buôn làng ơi! rừng già ta qua,
trơ lại rừng chồi
một sá lúa trăm cây cao rạp xuống!
chạy quanh quẩn nghìn đời giữa núi cao rừng thẳm
nay địu con đi dựng lán xây trường,
mỗi ngọn rau hạt thóc ngát bình yên
Ka Đum! Ka Đum! trăng tháng mười
hồng rực Tây Nguyên
bao ngọn lửa chừng như huyền hoặc
tiếng trống chạm vòm sao,
lịch sử vượt nghin năm tít tắp
giọng hát suối rừng: bao nhiêu cô gái Ka Đum! (46)
Tôi biết Nam muốn nhập thân vào đời sống thuần K’Hor, thuần Châu Mạ. Đó là một ý định tốt, lại rất khó. Làm sao tâm hồn, nếp nghĩ thuần K’Hor hoặc thuần Châu Mạ, nhưng vẫn trí tuệ, vẫn hiện đại, quả thật vô cùng khó. Chính Ka Kring cũng là một tổng hòa lạ, nữa là Nam. Tôi nói với Nam điều đó.
Nam bảo:
- Viết là mục đích sống, là lẽ sống. Phải sống hết mình để viết. Mình không còn cách nào khác là phải liều. Dạy cấp nào là điều không còn quan trọng nữa. Mọi cái đều không quan trọng, so với việc có tác phẩm. Không trông mong gì vào tấm lòng nào đâu, nhất là kẻ có lòng lại có chức quyền! Nghịch lí thế đấy! Tất cả đều phải tự thân lo lấy thôi!– Nam cười buồn, nói tiếp –. Sống một chỗ mãi làm sao mà viết! Cạn vốn sống!
Nam không nói điều sâu kín, song tôi biết, có thể đó là một dạng phản ứng của tâm trạng bất mãn chăng. Biết đâu, Nam cũng không rõ. Khó rõ được lòng mình, ai cũng thế. Tôi cũng chỉ đoán chừng. Đúng là tuyệt, nếu làm báo, cắm vào nơi nào đó vài tháng, về thành phố suy nghĩ, đến thư viện đọc sách tham khảo, rồi lại suy nghĩ … Nếu cần, trở lại chốn cũ để nhập thân, hòa mình … Nhưng đúng rồi, phải tùy điều kiện xã hội, bản thân, phải tự lo liệu.
Tôi nói:
- Làm báo, người ta không cho đâu! Bí mật mà!
- Nếu vậy, ai đọc báo làm gì! Báo chí, không có gì bí mật cả, trừ an ninh, quốc phòng. Báo chí phải trung thực. Trung thực, mới có người đọc. Và sợ gì!? Bí mật thì báo chí làm gì!
Nam nói xong, lại cười sằng sặc. Thật ra, nói thế thôi, chứ Nam hiểu hết. Báo chí mình, cũng như văn nghệ đều “lành” mà chưa “mạnh” cả! “Trung” nhưng chưa “thực”!? Một dạo khá lâu, Lộc Biếc muốn viết lí luận, phê bình, nhưng cũng rùn vai rụt cổ. Cái hăm hở thuở sinh viên mới ra trường dần dần teo lại. Suốt năm học vừa rồi, Lộc Biếc như bị án treo, từ buổi báo cáo chuyên đề đầu năm. Khi Ka Kring về trường, biết cô có tài hội họa, Nam nẩy ra ý định mới.
- Này Khoai, giá như mấy anh em mình được làm một tờ báo nhỉ!– Nam nói –. Có cây bút thơ, cây bút lí luận, phê bình, lại có cả cây truyện ngắn, cả cây hội họa nữa. Đủ bộ rồi còn gì! Cả bọn được về Hội Văn nghệ của tỉnh thì tuyệt vời!
Tôi chỉ cười. Thực tế đi, bạn ơi. Không trông mong gì đâu. Hãy thực tế làm những gì đó mình thích trong điều kiện của mình. Tôi nghĩ vậy, cũng chỉ nói với Nam, có lẽ hơi mỉa:
- Hiện thực có những nguyên tắc “bị hạn chế”, sao ông cứ mơ tưởng hão! Hội Văn nghệ tỉnh mình đã có đâu! Ông chưa ngấm nỗi đau bị từ chối à?
Nam vẫn thế, rất thực, thực đến đắng chát nhưng lắm khi cũng hão huyền. Có điều, anh hão huyền, lại ý thức rõ mình hão huyền. Hão huyền như một các tiếu ngạo chăng.
Trưa nay, nhìn ra sân nắng, lối mòn nắng và vạt đất trồng khoai ngập nắng, trong lúc bạn bè đang nghỉ giấc trưa, tôi lại nhớ Lộc Biếc, nhớ với niềm yêu da diết.
Hôm nào đó, nhân bàn gẫu chuyện viết lí luận, phê bình, cô nói:
- Khó trung thực lắm. Em thích nghiên cứu, viết các chuyên đề, chuyên luận ở mảng đề tài nào ít đụng chạm thôi. “Án treo”, thấy sợ rồi!– Cô lại rùng mình –. Năm nay, có bốn vụ ở trường mình: chi Xinh, anh Quỳnh, Huyện, và Lộc Biếc. Phải vậy không? Nhưng đừng đánh đồng Lộc Biếc với ba vụ hình sự thường phạm kia!
Tôi gật đầu, chợt thấy có những linh cảm đã trở thành nhãn tiền, đặc biệt là vụ chuyên đề. Đến lúc này tôi mới hiểu trực giác của tôi, về tính cách Lộc Biếc, về nhiệt tình tuổi trẻ nói chung, về các mâu thuẫn bức xúc trong lòng hiện thực, về độ chênh đáng kể giữa sách vở và thực tiễn, giữa nói và làm, đã mách bảo trước cho tôi. Có rất nhiều nạn nhân như Lộc Biếc do sách báo tô hồng, tuyên truyền đối ngoại. So sánh khập khiễng, là chưa có “thằng bán tơ” nào xúc xiểm để tôi hoặc ai đó phải bị “rút ngược dây oan” như các củ khoai ở nhà chị Xinh. Nghĩ thế, tôi chỉ trả lời ngay vào câu hỏi của Lộc Biếc:
- Đúng rồi …– Định nói thêm, nhưng tôi im lặng –.
Lộc Biếc nói, như muốn tôi khẳng định rõ:
- Anh không thấy sao, kể cả vụ chuyên đề của em, có người xếp nghiêm trọng thứ tư, đều là chuyện phẩm chất, nhân cách nhà giáo cả?
Tôi nhẩm trong đầu: chị Xinh, hủ hóa trong quan hệ nam nữ; anh Quỳnh, gian lận tài sản chung; Huyện, nhục hình học sinh; và Lộc Biếc, báo cáo chuyên đề “gây xáo trộn tư tưởng”. Nhưng tôi không đồng ý cách xếp thứ tự, và rõ ràng tôi không bao giờ ngu dốt đến mức đánh đồng cả bốn vụ được!
- Trung thực là phẩm chất, nhân cách nhà giáo … Tất nhiên, kêu đòi trung thực, kêu đòi bảo vệ nhân cách nhà văn, nhà giáo như Lộc Biếc hoàn toàn khác hẳn sự vi phạm tính trung thực, vi phạm đến nhân phẩm, đánh mất nhân cách của ba người kia. Phải nói là khác hẳn một trăm tám mươi độ. Nhưng vẫn có ý kiến này nọ như muốn cấm chỉ việc kêu đòi trung thực và nhân phẩm, nhân cách kia đấy! Và cũng ý kiến tương tự như thế nhưng thực tâm là tán thành, chỉ đùa lại mà thôi.
- Đúng vậy đó, anh Khoai. Có kẻ bảo, kêu đòi trung thực, nhân phẩm, nhân cách là xúc phạm nhà giáo, nhà văn, khác nào chửi họ là công cụ máy móc, là văn nô, là bồi bút! Còn anh Nam thì đùa, ngay cả việc em ca ngợi Phùng Quán, Trần Quang Long thôi là đã nhục hình các giáo viên, các người làm thơ, viết văn cùng thời, khác nào bảo họ “đánh đĩ cây bút …”!– Lộc Biếc cười khanh khách –.
Tôi cũng cười. Quả là như vậy thật. Biết thế nào được, cuộc đời! Đúng … Trung thực là giá trị nhân cách cao nhất …
Trưa nay, ngồi một mình nghĩ bâng quơ, tôi cũng mỉm cười nhớ Huyện. Huyện bảo:
- Mình sẽ làm kinh tế để tài trợ cho các bạn. Làm báo văn nghệ, lương bao nhiêu đâu! Nhuận bút thì thi thỏang!
- Nhưng ai cho Huyện làm kinh tế!– Tôi bật cười –.
Đúng là một trò hão huyền trẻ con tất, những thơ, văn, báo chí, kinh tế! Đúng là nạn nhân của một thời nửa chiến tranh, nửa hậu chiến, nạn nhân của thể chế nửa phong kiến phi dân chủ, nửa xã hội chủ nghĩa! Đắng chát nhận ra sự thật với một nụ cười.
Có lẽ, trưa nay, một buổi trưa gần kết thúc năm học, bâng quơ hồi tưởng những mẩu rời của cuộc sống bên ngoài lẫn bên trong của các giáo viên trẻ, bạn bè, tôi có thoảng chút nào dư vị bất mãn. Tâm trạng thật của con người vốn thế. Bất mãn, tuy chỉ hơi chua chát, thoáng mỉa mai thế sự, phảng phất chút hư vô, song vẫn sáng suốt khẳng định mặt sáng của hiện thực thời mình sống. Bất mãn cũng là tính người.
Khát vọng cống hiến của thanh niên, và cơ chế xã hội không thể không mâu thuẫn? Biết làm thế nào được!
Phải vậy không, Lộc Biếc với ước mơ trở thành nhà nghiên cứu, phê bình, trên sách báo, trên giảng đường đại học? Phải vậy không, Huyện với ước mơ làm vị bác sĩ bào chế hóa dược? Phải vậy không, Nam với ước mơ sẽ có điều kiện để trở thành nhà văn, nhà thơ tư tưởng? Và phải vậy không, Ka Kring với quan niệm hạnh phúc là làm cô giáo đồng thời làm họa sĩ? Ồ, còn tôi nữa chứ! Tôi cũng ao ước mình là nhà văn, mặc xã hội diễn ra theo ý chí ai đó, theo lô gích khách quan với những sáng, những tối của nó, tôi khiêm nhường, cẩn mật ghi lại thành hình tượng hư cấu, thật hơn sự thật ngổn ngang, bao nỗi đời hiện thực. Tôi cũng dấn thân với tư thế riêng của mình. Phải vậy không tôi? Còn bao nhiêu người khác nữa! Đó là nỗi đau xót nhất của người viết văn. Tôi vẫn biết trái tim tôi luôn cháy bỏng khát vọng được đăng tải trên báo chí và xuất bản thành sách những trang viết của mình. Chân thiện mĩ và khát vọng tự do sáng tác, tự do báo chí, tự do xuất bản! Đó là nhân quyền và đó cũng là quyền công dân ở một nước có hiến pháp!
Nhìn ra ngoài sân nắng, lối mòn nắng, vạt khoai mới trồng ngập nắng, tôi nghĩ đến những nhánh lá khoai già đang hiu hiu chết để sống lại, non tươi. Tôi bỗng đau với quy luật tàn ác, cường bạo của tự nhiên. Cỏ tranh phải bị “đào tận gốc, trốc tận rễ” để khỏi tranh giành, kìm và hãm các lá khoai, nhánh khoai đang héo hắt nhưng rồi sẽ được tái sinh. Cỏ tranh, biểu tượng của nông thôn với triệu triệu người qua ngàn năm chân đất, trên bao mái nhà yêu dấu. Cỏ tranh, thương, quý biết chừng nào! Thế mà tự nghìn xưa, cỏ tranh vẫn được trồng, đồng thời vẫn bị “đào tận gốc, trốc tận rễ” vì chúng đứng không đúng chỗ của chúng! Không đúng chỗ, bi kịch là ở đấy! Bi kịch là do quy luật tự nhiên …
Lộc Biếc! Chút ngẫu nhiên đã trở thành cơ may, một tình huống tốt đã mở ra cho thơ tôi đi vào trái tim em, cả cuộc đời tôi đi vào công việc, miếng ăn, trang viết, giấc ngủ em, có điều vẫn bản tính cố hữu, lóng cóng, dại dột, tôi nào dám nói với em điều gì. Tôi yêu em biết chừng nào! Tôi thầm lặng yêu em trong cô đơn, đau buồn, câm nín. Mừng vui với tình huống “tốt” là tôi đáng xấu hổ. Nam và Huyện cao thượng với tôi ư? Nhưng em có bao giờ thoáng yêu tôi! Hay chính bản tính tự khép lại cảm xúc mình với các cử chỉ vụng về của tôi đã khiến em chan ngán, không thích gần gũi tôi? Không đúng chỗ, bi kịch là ở đấy! Trái tim em không phải là chỗ của tình tôi! Tôi chọn trái tim em cho thơ tình riêng của tôi, không đúng chỗ! Còn trong các trang truyện của tôi, em, nhân vật nữ với nhiều gương mặt, tên họ khác nhau, chỉ “đúng chỗ” một cách quá đơn phương! Bi kịch cũng lại ở đó! Và đúng lúc? Biết thế nào là đúng lúc! Điều kiện cần với điều kiện đủ!
Tôi có gì đáng khinh bỉ, ghê sợ không khi nhìn vạt khoai mới trồng lại liên tưởng đến những ý nghĩ rất tùy bút một cách bâng quơ, tản mạn? Tôi, củ khoai làng Thuận Xá, mẹ là dân biển gần đó, bỗng rùng mình cho bản năng tranh đoạt bẩn thỉu của vô thức. Thật bỉ ổi!
Tôi nguyền rủa vô thức của tôi rồi đó, Lộc Biếc yêu dấu! Tôi chỉ biết tôi yêu em vô ngần, yêu đến vô cùng, Lộc Biếc ơi!
Chẳng lẽ tôi đang viết trong đầu óc của mình một phần của bản kiểm điểm cuối một niên khóa dạy học? Phần sâu kín này tôi chẳng bao giờ đọc trong cuộc họp để nhờ bạn bè, đồng nghiệp và lãnh đạo góp ý. Tôi tản mạn hồi nhớ, tôi tự kiểm điểm để làm trong sáng lại, thăng hoa lên tâm hồn, ý thức, cả vô thức tôi đây, ơi yêu dấu! Tôi tự kiểm điểm tận sâu kín bản năng đáng xấu hổ của tôi đây, bạn bè ơi! Tôi đang tập sự làm nhà giáo, đang rèn luyện để trở thành nhà văn. Tôi đang suy ngẫm một hệ luận có mồ hôi của trải nghiệm, có nước mắt của trăn trở trong tim ai đó: “Biến quá trình giáo dục [cho học sinh] thành quá trình [nhà giáo] tự giáo dục [bản thân nhà giáo]”. Tôi đang soi tôi vào trang văn của mình để sửa chính mình. Giữa học sinh cùng bạn bè đồng nghiệp, tôi đã sinh nở ra một tôi mới mẻ.
42
Hồi hôm các giáo viên có và không giảng dạy lớp chín đã họp lần thứ hai với Ban Giám hiệu. Các giáo viên không dạy lớp này một tiết nào trong niên khóa bảy tám – bảy chín nhưng có dạy trong các năm trước cũng tham gia ý kiến sôi nổi về trường hợp của Nhi. Nhi, con gái rượu của ông Lịch, ủy viên Ban Chấp hành Hội Phụ huynh học sinh trường. Ông đã bao lần đến trường với gương mặt, dáng điệu đau khổ. Nhi là cô bé mười sáu tuổi, trắng trẻo, cao ráo, tóc dài đen mượt, gương mặt xinh xắn nom khá sáng láng. Rất đáng tiếc là cô bé ấy lại học quá kém tất cả các môn. Đã có giáo viên kết luận: “Nhi không thể học được”. Khi họp lần thứ nhất, đa số đã đồng ý không thể cho Nhi đủ điểm để lấy bằng tốt nghiệp phổ thông cơ sở. Chốn này, vùng kinh tế mới, đi học xa đường, khó khăn, gian khổ đủ điều, và hạnh kiểm của Nhi tốt, nhưng không thể chiếu cố rồi lại chiếu cố. Tuy nhiên, đây là vấn đề số phận một con người. Một con người là cả một vấn đề hệ trọng. Ban Giám hiệu, giáo viên lại họp, đêm qua. Sáng nay lại họp một lần nữa.
- Không thể lường được tác hại khi một y tá, dược tá, cán bộ có bằng trung cấp nông nghiệp … trong tương lai lại kém học vấn phổ thông như Nhi. Kém văn hóa, học chuyên môn, nghiệp vụ cũng kém. Và xã hội sẽ như thế nào? Khốn đốn, nghèo đói, oan khốc … vì dốt.– Hoán nói – Do đó, xin đau lòng không vớt điểm em Nhi. Nhi không có năng lực trí tuệ! Đành để Nhi ở lại lớp.
Mọi người, dẫu rất thương Nhi, cũng đành biểu quyết đồng ý, vì tương lai của Tổ quốc. Không phải phóng đại. Thật là vậy. Hộ cũng bị đánh rớt, cho lưu ban vì hạnh kiểm, tuy Hộ đã có tiến bộ đáng kể trong thời gian Lộc Biếc chủ nhiệm.
Với biên bản ba cuộc họp vừa rồi, cùng bản tổng hợp các báo cáo khác, đúng tám giờ sáng, anh Giảng triệu tập cuộc họp tổng kết cuối năm. Giáo viên các phân hiệu đều tập trung đầy đủ, cả các đội viên Đội Thanh niên Ánh sáng. Phong trào “dạy tốt, học tốt”, thi đua “Về thăm Lăng Bác” đều được đánh giá cụ thể. Trong bản báo cáo, hồi nãy anh Giảng đã nêu lại các vụ việc được xem là tiêu cực: vụ Lộc Biếc với chuyên đề, vụ cô Xinh quan hệ bất chính, vụ anh Quỳnh hái dâu trộm, vụ Huyện nhục hình học sinh. Công đoàn cũng tổng kết mặt sáng, mặt tối. Anh Quỳnh cũng một lần nữa tự phê bản thân. Như đã góp ý, phê bình Ban Giám hiệu, các giáo viên lại xóay vào cái được, chưa được, không được của Ban Chấp hành Công đoàn trường, ngọt lịm và rát bỏng. Lại y hệt anh Giảng, anh Quỳnh cũng không chịu xem vụ “tự do, trung thực” của Lộc Biếc là tốt, một cách miễn cưỡng.
Bình xong, lại bầu lao động tiên tiến.
Tôi thấy Lộc Biếc cố bình thản nhưng rất đau lòng, cay đắng. Luận văn của cô, ông trưởng Phòng Giáo dục K’Đăng còn giữ. Lộc Biếc không được xếp hạng lao động tiên tiến!
Nam ngồi cạnh chị Xinh, an ủi chị. Chị Xinh, với bầu thai sáu tháng, xấu hổ, thút thít khóc. Tôi nghe Ka Kring nói nhỏ với chị Xinh:
- Đừng buồn khổ, chị Xinh! Chị cố thương đứa bé trong bụng. Chị buồn, chị khổ, ảnh hưởng đến cháu, tội nghiệp. Làm thư viện, cấp dưỡng là việc nhẹ hơn lên lớp, cứ xem như dưỡng thai. Nhìn sự việc thế là nhìn lạc quan. Cứ vui như em này … Chị vui, sau này cháu sẽ thông minh, khỏe mạnh.
Chị Xinh gật đầu, chấm khăn tay vào hai khóe mắt. Tôi muốn khóc khi nghe cô giáo lai Ka Kring nói. Con người nhân hậu ấy lại cam lòng “triệt sản” khi còn trinh nữ để được có chồng, và oái oăm thay, người cô chọn để yêu, để cưới theo phong tục K’Hor, Chiau Mạa, lại là Nam. Song tôi cũng thương Nam, làm sao Nam vượt lên nổi ý thức tự vệ của cộng đồng, dẫu người Việt Nam nhân hậu vô cùng.
Tôi lại giật mình khi nghe chị Trâm, cấp dưỡng viên, phê bình Suối Vui đã đi nhà thờ Thiên Chúa giáo ở Minh Rồng hay Đa Phát gì đấy vào mỗi sáng chủ nhật. Nhưng anh Ruộng gạt đi, anh bảo, luật pháp cho phép điều đó.
- Sao năm ngoái, thầy Lê, hiệu trưởng, lại phê bình tôi? Tôi đã bỏ đạo cả năm nay!– Chị trâm ngơ ngác nói –.
Cả phòng họp cười ầm. Chị Trâm chả hiểu sao cả, đỏ bừng mặt. Chị quên bẵng phần phê – tự phê xong lâu rồi.
Một lúc sau, gần cuối buổi họp, Lụa lại phê bình thêm:
- Tôi có ý kiến góp cho các đồng chí: Lộc Biếc, Nam, Huyện, Khoai và Ka Kring. Năm đồng chí này được nhà tập thể gọi là nhóm “Cộng sản cấp tiến”. Tôi thấy các đồng chí có những ý tưởng không phù hợp với tình hình chính trị hiện nay trong sinh hoạt. Các đồng chí không nên cấp tiến kiểu đó.– Lụa nhìn xuống đất –.
- Tôi hiểu đồng chí Lụa muốn nói gì. Tuy nhiên, xin nêu ra thật cụ thể.– Lộc Biếc nói, hơi có vẻ khó chịu về ý kiến của Lụa –. Chúng tôi không dám lập nhóm, lập hội lúc này. Chúng ta đang sống và làm việc trong một giai đọan lịch sử mà mọi quyền con người (nhân quyền) đều bị hạn chế, mặc dù các quyền ấy đã được hiến chương Liên hiệp quốc, các hiến chương quốc tế lẫn hiến pháp nước ta công nhận. Chúng tôi ý thức sâu sắc điều đó.
Tôi, thật lòng cảm phục Lộc Biếc, cũng chỉ im lặng!
Tôi cũng đóan Lụa đợi xếp loại xong mới phê bình thêm, để khỏi ảnh hưởng xấu đến thành tích của đồng nghiệp. Tốt đấy, nhưng cần gì thế nhỉ! Tốt hơn là phải chân thành, trung thực với nhau trước khi bình bầu chứ!
Tôi, Nam, Huyện và Ka Kring đã biết cô Lụa: Cô ấy nhiệt tình cách mạng một cách máy móc, chỉ tô hồng, sợ nói thẳng, nói thật các hạn chế mà cuộc sống đang diễn ra, trong trường, ngoài trường, tuy chỉ trong sinh hoạt giáo viên hằng ngày.
Tôi nghe cô Lụa phê bình khá cụ thể, chỉ im lặng.
- Chúng tôi là giáo viên nhân dân. Ai cũng có cái đầu để nghĩ, đôi tai để nghe, đôi mắt để thấy, trái tim để cảm xúc. Chúng tôi là những người cộng sản, cho dù được kết nạp và Đoàn hay không, hoặc đã bị khai trừ.– Lộc Biếc nói –. Chúng tôi nghĩ, giáo viên nhân dân, người theo lí tưởng cộng sản khoa học, phải biết căm ghét cái tiêu cực, buồn bực với cái hạn chế về các quyền con người, phải yêu thương, trân trọng và nhân lên cái sáng: chân, thiện, mĩ. Chúng tôi làm việc có sai sót, khuyết điểm, nhưng có tổ chức, có lãnh đạo.– Lộc Biếc lại hùng hồn –. Chúng tôi không là công cụ máy móc kiểu rô bốt, không óc, không tai, không mắt, không tim. Chúng tôi có quyền nhận thức xã hội một cách toàn cục với quan điểm duy vật lịch sử, duy vật biện chứng, có quyền cảm xúc trước cái đáng mừng, cả cái đáng đau lòng. Người máy, tô hồng một chiều, là nô lệ, bị nô dịch kiểu khác.
Lụa đưa mắt cầu cứu anh Ruộng, anh Giảng. Cả hai lắc đầu. Và cuộc tổng kết kết thúc với bảng xếp loại. Tất nhiên có ba người lọai C: cô Xinh, anh Quỳnh và Huyện. Lộc Biếc bị xếp loại B. Tôi thấy tôi quả là thằng hèn loại A!
Khi bước ra sân, đứng chuyện trò với nhau, bỗng mọi người thấy chiếc xe của Phòng Giáo dục đỗ xịch trước hàng rào. Lộc Biếc giật mình, lo âu, song cố giữ bình tĩnh. Huyện cũng thế. Ông K’Đăng, cán bộ khối phổ thông Nguyễn Kí và ông Binh xuống xe.
Anh Giảng, anh Quỳnh, anh Ruộng ra đón.
Sau hơn nửa giờ các vị lãnh đạo làm việc ở văn phòng, nửa giờ lo âu, hồi hộp của Lộc Biếc và Huyện, chúng tôi được mời vào gặp. Tôi cứ lo phen này chắc bị kiểm điểm, phê bình thậm tệ. Chúng tôi, nhóm “Cộng sản cấp tiến”, chỉ năm người trước sáu vị cấp trên.
Ông K’Đăng mỉm cười, đứng dậy với vóc dáng cao lớn, da nâu sẫm, tóc gợn sóng, bắt tay Lộc Biếc rồi mỗi người chúng tôi. Sau phút xã giao bình thường, tôi thấy Lộc Biếc vẫn giữ được vẻ bình tĩnh, ung dung. Cô gái ấy không còn vẻ nhí nhảnh, dễ thương, thay vào đó là vẻ chững chạc, tự tin, giấu được nỗi âu lo suốt cả năm học nay. Lúc này, tôi càng nhận ra bản lĩnh tự tin của cô. Nam và Huyện cũng cố đàng hoàng giữ nụ cười trên môi. Ka Kring hơi bối rối.
- Chúng tôi định đến dự cuộc họp Hội đồng toàn trường hồi nãy, nhưng rồi quyết định để các đồng chí trong nội bộ kiểm thảo với nhau. Chúng tôi vừa nghe báo cáo lại.– Ông K’Đăng ôn tồn nói với giọng pha thổ âm –. Đồng chí Kí cũng đang đọc lại biên bản.
Tôi thấy ông Kí đang đọc các dòng chữ của Đồi Hương trong cuốn sổ to tướng bìa đen, có lẽ đọc đến lần thứ hai.
- Chẳng có vấn đề gì. Thế là tốt. Có tiêu cực, nhưng đã có biện pháp thích ứng. Đây là một trường có nhiều nhân tố tích cực. Đúng là một trường trọng điểm của Phòng Giáo dục ta.– Ông K’Đăng lại nói –. Riêng các đồng chí, chúng tôi muốn gặp riêng. Các đồng chí có ý kiến gì, cứ phát biểu trước.
Chúng tôi im lặng. Một lúc, Nam nói:
- Thưa các đồng chí, không còn ý kiến gì nữa ạ. Có điều, tôi xin mạn phép thưa rằng, cô Lộc Biếc với vụ chuyên đề văn học, “Chân, thiện, mĩ và khát vọng tự do sáng tác …”, hồi đầu năm, bị quy ngược là tiêu cực, và suốt cả quá trình công tác, giảng dạy năm học qua bị xếp loại B, tôi thấy hơi oan uổng, xin bất bình thay cho cô ấy. Đó là ý kiến nhiều người, trong cuộc họp vừa rồi.
Ông K’Đăng gật đầu:
- Tốt. Không có vấn đề gì. Đánh giá thế là hơi ép. Tôi phê bình Ban Giám hiệu trường này là đã quá thủ thế. Lẽ ra phải duyệt trước rồi mới tổ chức cho cô Lộc Biếc báo cáo. Quá mạnh dạn rồi quá thủ thế. Làm việc kiểu đó thì không được, oan uổng cho người khác, như cô Lộc Biếc. Bao người có tài, có tâm bị “chết” bởi tâm lí thủ thế như vậy của lãnh đạo. Đánh trống cũng mình, bỏ dùi cũng mình, oan uổng cho bao người!– Ông K’Đăng tiếp –. Tôi và nhiều đồng chí ở Phòng Giáo dục đã đọc luận văn của cô.– Ông nhìn thẳng vào Lộc Biếc, vừa nghiêm nghị, vừa trấn an –. Bản thân tôi cho là tốt, rất tốt. Song theo ý kiến đa số, họ không hiểu hết, và cho là chưa nên. Thôi thì … Ta làm ngành giáo dục, lại bậc phổ thông, nên dạy, bàn luận có tổ chức những gì đã định hình, cứ theo sách giáo khoa … Thôi thì … Bỏ qua chuyện này. Tôi đề nghị xếp loại A cho đồng chí Lộc Biếc. Đồng chí Giảng vẫn A, không hạ bậc. Các đồng chí có ý kiến gì nữa không?– Nói xong, ông mở cặp rút ra cuốn luận văn “Chân, thiện, mĩ và khát vọng tự do sáng tác …”–.
Ông trả cuốn luận văn ấy cho Lộc Biếc. Cô đáp khẽ lời cảm ơn. Nét mặt Lộc Biếc tỏ lộ niềm cảm động, vui mừng.
Ông Binh đằng hắng, sau một quãng im lặng dài của mọi người:
- Nhân tiện đây, tôi cảm ơn cácđồng chí trong việc bổ túc văn hóa cho tôi. Đó là một ưu điểm … Không có đồng chí Hoán ở đây, nhớ cho tôi gửi lời cảm ơn. Xin bổ sung ưu điểm này cho các đồng chí.
- Kính cảm ơn bác Binh đã treo cho cháu cùng các đồng chí khác, các em học sinh, các vị phụ huynh một Tấm gương hiếu học – thực sự cầu thị. Học ngay cả các giáo viên tuổi cháu chắt mình là cả một Tấm gương lớn và sáng.– Lộc Biếc cảm phục nói –.
- Cảm ơn. Tôi không có ý định nêu gương. Chả là hồi trẻ không học được vì hoàn cảnh kháng chiến, tập kết ra Bắc lại kẹt lí lịch, cha tôi là lính lệ, lính Tây, cũng không học được. Suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp của dân, của Đảng, nhưng chức vụ cao nhất và cuối cùng chỉ là quyền bí thư Chi bộ xã.– Ông Binh cười –. Thôi, nói là nói thế, nhưng ở vị trí nào ta cũng trung với nước, hiếu với dân …– Ông không có vẻ gì là mặc cảm –.
Tôi ngỡ như bị ù tai, tuy đây không phải là lần đầu nghe ông Binh tự nói về mình. Tôi đợi sự phê bình, góp ý gì nữa, song chỉ là những câu nói vui của ông K’Đăng, với ngụ ý giúp chúng tôi bớt ảo vọng và giữ được sự tỉnh táo trên đường đời sau này, nhất là trong việc sáng tác, báo chí, xuất bản. Sau đó, ông cho phép chúng tôi ra khỏi văn phòng.
Lộc Biếc cười nhẹ nhõm. Chúng tôi cũng thở phào.
Nam vẫn trầm tĩnh nói:
- Trên con đường sáng tạo văn chương và trau dồi chuyên môn, không có gì khiến chúng ta sờn lòng, chùn bước. Chúng ta rồi sẽ có tự do sáng tác, tự do báo chí, tự do xuất bản và quyền được làm việc đúng với sở trường, với chuyên môn của mình. Đó là con đường nhân quyền và hiến pháp xã hội chủ nghĩa nước ta!
Tôi mỉm cười, tán thành với Nam, và chợt nhớ lời Nam thường nói: giá trị văn chương thuộc về vĩnh cửu, còn tất cả chỉ là nhất thời, rồi sẽ tan biến. Bây giờ, Nam còn nói đến giá trị chuyên môn nữa …
Sau bữa liên hoan tổng kết năm học, chúng tôi nghỉ trưa, chờ nhận giấy công lệnh kèm giấy ưu tiên cho giáo viên miền núi về giao thông, cụ thể là mua vé xe được thuận lợi.
Khoảng ba giờ chiều, anh Giảng cùng cô Phước, cô Đồi Hương đi họp báo cáo ở Ủy ban xã Bảo Nghĩa về. Anh Giảng ném cặp lên bàn ở văn phòng, càu nhàu nhưng miệng cười:
- Đồ điên hạng nặng!
Và anh triệu tập Ban Giám hiệu, Ban Chấp hành Công đoàn trường cùng ba phân hiệu trưởng khác để nâng bậc xếp loại cho anh Quỳnh. Hóa ra anh Quỳnh bán dâu trộm để giúp hai lần cho vợ anh thư kí Ủy ban nằm bệnh viện, chữa bệnh lao phổi, với lời dặn đừng nói cho ai biết! Khi anh Giảng báo cáo, anh thư kí Ủy ban không giấu được xúc động, bèn minh oan cho anh Quỳnh. Anh Quỳnh thấy anh Giảng cáu gắt, cũng đành thú nhận, là tín đồ Tin Lành, anh ấy sống theo lời Chúa, “làm việc thiện bằng tay phải, đừng cho tay trái biết”, và chịu oan khổ, nhẫn nhục để gần gũi với Thiên Chúa hơn!
Ngồi bên gian nhà nam, tôi nghe khá rõ. Tôi nghĩ đến “thú đau thương” bệnh hoạn, đã trở thành thời thượng triết học, thi ca nhiều nước, là phong trào của nhiều thời đại. Với anh Quỳnh, trong trường hợp này, giữa đời sống thật, quả là lần đầu tôi được chứng kiến. Gần Thượng đế hơn ư? Tôi cứ lật qua, lật lại câu hỏi siêu hình, thần học ấy.
43
Học sinh lại đến lớp vào sáng hôm nay. Đây là buổi cuối cùng của năm học. Các em được thông báo kết quả một cách cụ thể hơn, đồng thời ghi chép kế hoạch ôn tập hè. Trong điều kiện khó khăn, thầy và trò liên hoan tạm biệt chỉ bằng thơ, nhạc.
Đã chia tay với học sinh lớp bảy của mình, Nam bước ra hành lang. Bé Ngoan, Qua, Ka Tem, rồi sau đó là K’Bri, K’Bẻo chạy theo anh. Nam quay lại, nghẹn ngào, nhìn các học sinh suốt năm học anh lưu tâm nhất. Một lúc sau, Nam với đôi mắt đỏ hoe bảo các em:
- Những gì thầy nói vừa rồi trong lớp, các em nhớ nhé. Phải học. Luôn luôn tâm niệm như thế để học. Học, đó là lối thoát cuối cùng cho bản thân, gia đình và đồng bào. Sau này, dẫu làm gì đi nữa, có học vấn vẫn hơn. Riêng với Ka Tem, thầy tin em đã hiểu, cũng không thể quên được những gì thầy muốn nói với ba của em, đó là đoàn kết trong bình đẳng.
Các em khóc nức nở. Hình như các em không nói được gì. Đứng trong lớp sáu, tôi thấy Nam một lần nữa vẫy tay chào lớp bảy cùng các học sinh đứng khóc ở hành lang, rồi bước ra sân. Anh lại đáp lời chào và chúc của học sinh các lớp khác đã tản ra, sau buổi chia tay.
Học sinh với thầy giáo quyến luyến tưởng không rời.
Sau đó mươi phút, tôi cũng bịn rịn từ giã lớp sáu thân yêu của tôi.
Trong bữa ăn trưa cuối năm học, các giáo viên, nhân viên vừa vui mừng được về phép, vừa bùi ngùi chia tay, hẹn gặp lại sau một tháng.
Tôi cứ bâng khuâng nhìn mãi chú mèo đực ngồi trên thùng gỗ to làm chạn của bếp ăn. Tôi nhìn chú mèo vô tư lự để che giấu niềm xúc động ngổn ngang trong lòng mình.
Để tránh cơn mưa buổi chiều, chúng tôi đạp xe đạp đèo nhau ra Đa Công giữa nắng trưa.
Gặp Hạ từ nhà lên, Nam lại nói to để dặn Hạ:
- Cho gửi va li sách nghe Hạ. Giữ cẩn thận giúp nghe. Cảm ơn trước nghe.– Nam cười –. Gia sản đấy!
- Thầy yên tâm.– Hạ cũng híp đôi mắt một mí cười –. Thầy cô về phép được vui!
Chúng tôi cảm ơn Hạ, trong khi vẫn đạp xe đèo nhau. Nhiều học sinh đang đứng chơi dọc hàng hiên, ven đường vòng tay chào và chúc. Làm giáo viên nông thôn, những hình ảnh như lúc này là phần thưởng cảm động nhất.
Ở đằng xa, thấy chúng tôi, Ngoan chạy vào nhà gọi mẹ. Chị Xinh ra đứng đầu ngõ. Chúng tôi phanh xe lại. Trong sân, cô giáo Cam Ly với Đồi Hương đang chia tay Hải. Tôi mỉm cười, biết Cam Ly giữ kẽ, rủ Đồi Hương cùng ghé chào. Tôi định xin phép chào vọng vào hai cụ già (ông bà nội bé Ngoan), nhưng thấy thế là thất lễ, nên cả mấy người cùng nhau vào tận nơi để chào hai cụ.
Chị Xinh kéo Nam đến dưới gốc cây trứng gà, vừa khóc vừa nói. Lộc Biếc giữ xe đạp với hai túi xách hành lí, bên cạnh xe đạp tôi và Ka Kring đang ngồi. Những câu trước tôi không nghe rõ, chỉ mỗi một câu chị Xinh nấc lên như không kìm được đã thốc vào tim tôi nỗi xót xa:
- Cậu Nam … đừng kể chuyện … tôi … trong ni cho … ai nghe, … nghe cậu!– Chị Xinh dùng từ địa phương –.
Đó là câu cuối chị Xinh nói rồi khóc òa. Bé Ngoan cũng ôm tay mẹ khóc. Nam nói nhanh:
- Như Ka Kring dặn đó, chị cố vui, lạc quan vì thương đứa con trong bụng.– Nam cố ghìm xúc động nên giọng anh hơi rắn lại và gấp –. Nó là một Con Người. Chị phải chăm lo cho nó ngay lúc này, dạy dỗ nó sau này cho nên người.
Nam bước lại chỗ Lộc Biếc, đạp xe đèo cô đi. Chúng tôi đạp xe theo anh. Nhận ra đạp hơi nhanh, anh chậm lại.
Sau khi chào gia đình ông Binh, anh Ruộng, chúng tôi định đạp thẳng ra Đa Công. Dọc đường đất đỏ lầy lội này, tôi cười chào các cô giáo đang vén ống quần, đi ngoằn ngoèo để tránh các vũng nước ngầu đục lấp loáng nắng. Tôi sực nhớ hôm ăn xôi nếp ở nhà chị Xinh lần đầu, chị có nhắc đến kỉ niệm với Nam hồi chị mười mấy tuổi, Nam mới lên bốn. Đó là thú nặn đất sét thành tượng, một tượng khỉ lớn, con vật cầm tinh, rồi vỗ nước vào nặn lại thành bốn tượng nhỏ, cũng là khỉ tuổi thân. Với khát vọng được sống và viết có phong cách riêng, cá tính riêng, tôi hơi khó chịu khi liên tưởng chúng tôi cùng một tuổi nên có chung số phận hay có nhiều nét đường đời giống nhau. Còn Ka Kring nữa? Tôi mỉm cười thấy mình vớ vẩn. Tôi vẫn cắm cúi đạp xe, bỗng phải phanh xe lại. Anh Trà từ quán bước ra gọi Nam và chúng tôi. Gương mặt anh gầy tóp lại, héo quắt, râu để dài như cỏ dại. Trông anh Trà, mới sau ba tháng không gặp lại, già đi cả mươi tuổi.
- Mời các bạn vào quán chơi một chốc đã.– Anh Trà mỉm cười tỏ thiện cảm –.
Nam ngập ngừng, nhìn trời, vừa sợ cơn mưa chiều thường thấy vào mùa này, vừa muốn thuyết phục anh lần cuối. Nam quay mặt lại hỏi chúng tôi. Hoán đang chở Huyện, cười:
- Thì vào một chốc. Càng mưa càng có kỉ niệm, sợ gì!
Sáu anh em ngồi trên hai băng ghế gỗ của ông cử Trà sửa xe đạp còn có biệt danh là Trà-Rơ-mác. Với tay lấy ấm nước, anh rót ra ba cái chén sứ sứt quai. Anh bước tới tủ kẹo bánh, thuốc lá. Kẹo, bánh mời khách được đựng trên nắp của cái thẩu thủy tinh. Anh Trà mở gói thuốc 475 đặt bên cạnh.
- Anh Trà cố gắng giữ sức khỏe chứ.– Nam nói –.
- Cảm ơn.– Bất giác anh sờ râu mép –. Các bạn được về phép, thích nhỉ! Cho tôi gửi lời thăm gia đình.
Lát sau, cố nén sự sốt ruột, tôi gạt qua những câu bâng quơ, vớ vẩn để nói:
- Anh Trà có nhớ chuyến xe từ Đà Lạt về Công không? Tôi vẫn nhớ “Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh” của E-rich Ma-ri-a Rơ-mác (Erich Maria Remarque), cuốn sách anh đọc trên xe, cả cuốn anh rất thích, “Một thời để yêu, một thời để chết”.
Anh Trà hơi thẹn thùng. Lúng túng mấy giây, anh cười chữa thẹn:
- Vâng, nhớ chứ. Có điều, cuộc sống ở Đức khác Việt Nam mình bây giờ. Chiến tranh đã khác, hậu chiến cũng khác. Ý tôi nói cả mấy cuốn Rơ-mác viết về Thế chiến hai, về các năm sau khi Đức bị chia cắt … so với thời điểm này … Như thầy giáo Nam hôm ở suối đá có nói, tôi cảm ơn, cố sống tích cực, nhưng ai cho mình tích cực mà tích cực!– Anh Trà nhếch mép cười –.
Có lẽ anh bất chợt nhớ AQ., Chí Phèo của Lỗ Tấn và Nam Cao với một nỗi cay đắng, tự biếm nhẽ quá thậm tệ?
- Ý em muốn nói là anh Trà cần xem đứa bé còn phôi nay đã thành thai gần ra đời, trong bụng chị Xinh, giọt máu của anh, như một Con Người cần được yêu thương, trân trọng, để nó sẽ là Con Người chân chính.– Nam chậm rãi nói sau phút trấn tĩnh –. Bây giờ, anh Trà ạ, em xin thêm một ý về cuốn sách nọ, “Một thời để yêu, một thời để chết”… Người lính phát xít trong phút thức tỉnh đã mở cửa kho để giải thoát cho những nông dân Nga yêu nước. Anh ta đã chết bởi loạt đạn của họ bên những đóa hoa dại có nhụy hồng trong đám cỏ gần đấy. Có người trách những nông dân du kích Nga lấy oán trả ân, trách anh lính phát xít Đức biết khoan hồng nhưng thiếu cẩn trọng, cảnh giác, nhưng vẫn có người bảo anh lính phát xít Đức đã tự sát bằng cách đó, vì lương tâm thức tỉnh. Còn câu chuyện của chúng ta ở đây tất nhiên không dính líu gì với cuốn tiểu thuyết ấy, chỉ có một liên tưởng nhỏ, nhân tiện mà liên tưởng, tuy khiên cưỡng nhưng cũng vui vui. Đó là liên tưởng nghịch. Em nghĩ,– Nam lại nhìn anh ấy –, anh Trà hãy sống, sống đẹp trước bào thai chị Xinh mang, sắp sinh nở. Vâng, anh Trà à, mong anh Trà sẽ sống, sống đẹp trước đứa con của anh. Đứa bé ấy sẽ là đóa hồng cứu sống anh, khát vọng hòa bình, nhân bản của anh. Sự thật lịch sử về “phù Lê”, “tả đạo” với hai tên phản quốc tiêu biểu là Tạ Văn Phụng, Trần Lục ở Bắc Kì thời Tự Đức – Hàm Nghi, sự thật về chế độ ngụy, “tả đạo” Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu ở Miền Nam, anh đã nhận thức rõ, và đã từ bỏ, em không nói tới nữa. Em chỉ nói khát vọng hòa bình, nhân bản (lấy con người trần gian làm gốc). Khát vọng ấy sẽ gặp lí tưởng của cách mạng vô sản, em tin vậy. Còn cuộc đời, nó cứ bước đi với các bước của lịch sử, chúng ta chỉ là những thành tố nhỏ thôi mà. Đã lỡ một thời để yêu, nên có một thời để sống! Để sống, anh Trà ạ.
- Vâng …– Anh Trà run run môi –.
Nam và chúng tôi mừng rỡ. Lộc Biếc hỏi ngay:
- Thật không, như vậy chứ, anh Trà?
- Vâng …– anh Trà nhìn lãng –.
Tôi hơi thất vọng vì âm sắc tiếng “vâng” của anh có vẻ miễn cưỡng, qua chuyện.
- Sao anh không quý hạnh phúc, quý tình yêu cuộc sống nhỉ! – Nam bần thần, hẳn cũng thất vọng –.
Đang cúi đầu, anh Trà ngẩng mặt:
- Tôi từ bỏ đứa bé đang còn là bào thai, cũng có nghĩa, tôi từ bỏ lương tâm, trách nhiệm của tôi (một kẻ chính là cha đẻ của nó). Tôi hiểu chứ. Nhưng các bạn cũng hiểu suy nghĩ của tôi rồi mà …– Giọng Bắc cố nặng âm địa phương của cố hương hơi nhòe đi –.
Đôi môi dưới và trên các sợi râu tua tủa của anh Trà hơi méo đi vì xúc động.
Nam không biết nói sao, chỉ cúi đầu rồi nhìn anh Trà:
- Cuộc sống sẽ khác đi. “Sau cơn mưa, trời lại sáng”, một câu ngạn ngữ hay tục ngữ gì đó đã khuyên bảo mọi người về niềm hi vọng như thế. Chẳng lẽ cứ lí lịch gia thế mấy đời, mấy họ mãi. Hiến pháp cộng hòa xã hội chủ nghĩa nước ta chẳng quy định mọi người đều bình đẳng về mọi nghĩa vụ và quyền lợi đó sao!
Nói thêm vài điều với nhau, chúng tôi chào anh Trà. Bẻ một nhánh cây khô nhặt được trên đường, tôi gạt bớt lớp bùn bám vào bánh xe và vè xe đạp. Nam, Huyện cũng thế.
- Hãy tin vào sức mạnh của lòng nhân hậu, anh Trà ạ.– Nam lại nói –. Không người Việt Nam nào cứu nhau bằng lòng thù hận. Người Việt Nam giải phóng nhau bằng lòng nhân hậu. Nghèo lòng nhân hậu sẽ không tự cứu được bản thân mỗi người, bất kì ai cũng thế.
Chúng tôi lại nghe anh Trà nói “vâng”.
Nhìn trời, sợ cơn mưa ập tới, chúng tôi chào anh Trà, cử nhân triết học, cựu sĩ quan đào binh, cũng là anh thợ sửa xe đạp, bán quà vặt!
Đạp xe qua doanh trại bộ đội, chúng tôi lại chào một vài người lính quen biết đang đánh bóng chuyền trong đó.
Tới ngã ba Đa Rai, thấy trên chiếc xe lam có nhiều cô giáo đang ngồi chờ khởi hành (Nghệ, anh Quỳnh, anh Giảng đã ra Đa Công hồi sáng). Tôi lại gặp K’Vinh, một anh lai Hy Lạp đang là giáo viên ở Bảo Thắng, tình cờ một hôm tôi quen. Chúng tôi chào nhau với những câu hỏi thân mật.
Tôi không ngờ em Hộ đã đợi sẵn ở ngã ba này để tiễn chân chúng tôi. Hộ nhìn thầy giáo Huyện với đôi mắt đỏ hoe.
- Sang năm em học lại lớp chín. Thầy còn dạy chúng em không?– Hộ hỏi thầy giáo Huyện, người thầy đã phục thiện –.
- Chưa biết thế nào, tùy Phòng và Ty Giáo dục, Hộ à. Dẫu sao đi nữa, hãy cố gắng học tập, tu dưỡng nghe Hộ!– Huyện đặt tay lên vai Hộ, nói khẽ với em, trong khi Hộ khóc, đôi bàn tay chai sần của em run mềm nắm tay cô giáo Lộc Biếc, người đã tận tâm yêu thương, phục hồi cho em lòng tự trọng –.
Đạp xe ra Đa Công, dọc đường, Ka Kring nói sau lưng tôi, bồi hồi:
- Sao em yêu nghề giáo dục quá, anh Khoai ạ.
Tôi cũng nghĩ không khác Ka Kring.
Hai bên đường, bạt ngàn các đồi trà tươi lên sau những cơn mưa đầu mùa. Những ngọn cỏ mọc xen với trà đâm vào tâm hồn nông dân của tôi buốt nhói như các ngọn cỏ lúa ở quê nhà Thuận Xá, Quảng Trị xa lăng lắc. Cỏ ơi, hãy mọc đúng chỗ nào! Trà ơi, xanh lên những chồi lá tơ non ngọt chát đi nào! Tôi liên tưởng nghịch đến anh Trà. Anh Trà không phải là bạt ngàn trà trải khắp bao ngọn đồi kia. Là người đau đáu khát vọng được bình đẳng, anh Trà có ngọn lá biếc nào trong lương tâm, lương tri anh không, trước vòm bụng mang đứa con máu thịt anh với chị Xinh, nói như Nam, khác Rơ-mác, là đóa hồng sự sống? Tôi tin đóa hồng ấy đã sáng bừng trong tâm anh Trà, sống lại trái tim anh …
- Phải vậy không Ka Kring?– Tôi buột miệng –.
Ka Kring ngơ ngác:
- Phải gì, anh Khoai?
Tôi cười, chợt nhớ mình vừa buột miệng bất giác:
- “Sau cơn mưa, trời lại sáng” ấy mà.
- Đừng mưa, ướt hết. Em mong trời sẽ mưa thuận gió hòa vào đêm nay, sau khi mình đã đến nơi, dạo quanh Đa Công và ăn tối. – Ka Kring thực tế nói –. Lúc đó, mặc mưa với bóng đêm ngoài trời, chúng ta sẽ đóng cửa kính, hát hò, uống trà. Sáu anh em, trên một căn gác ấm cúng ở nhà em. Cuộc đời bao giờ cũng dễ thương thì tốt hơn.
Chúng tôi dắt xe lên dốc rồi thả xe xuống dốc, với tay phanh hờ sẵn, cho hai cặp má phanh rà rà vào hai vành xe.
Dọc đường, tôi lại xúc động biết bao khi nghe Ka Kring bảo:
- Chị Lộc Biếc đã cứu cả Hộ, cả Nhi, cả anh Huyện đấy, anh Khoai à. Và ông Mộ, sau một cuộc xung đột dữ dội với Hộ, ông già huấn nhục man rợ ấy đã nghe ra lẽ phải. Lẽ phải đã được Hộ sử dụng để đấu tranh, thuyết phục ông thân sinh của nó. Hộ thắng lợi! Cũng hay chứ, anh Khoai? Đấy là tính biện chứng, quá trình tác động qua lại, trong quan hệ lí lịch, phải không anh Khoai?
Mặc dù đã biết, tôi vẫn nghẹn ngào một lúc mới nói được:
- Trong các quan hệ xã hội khác cũng thế … Anh cũng yêu nghiệp giáo dục quá, Ka Kring ạ. Không có gì đẹp hơn khát vọng làm “y sư của tâm hồn”.
44
Đêm Đa Công, cuối năm học ấy.
Cuối tháng năm theo lịch mặt trời, khi các rẫy nương đang đâm chồi vào mùa một cách náo nức, ở Đa Công, xã huyện lị, chúng tôi quen gọi với một chút mơ ước là thị trấn, lại vắng khách xa đi chợ. Chợ huyện với các phố chợ buổi chiều hôm tẻ ngắt nhưng vẫn xôn xao đối với những người từ nông thôn về như chúng tôi. Mua một ít quà, chủ yếu là trà hương ngâu, đặc sản của quốc doanh, ở các cửa hàng quốc doanh huyện lị Đa Công, loại trà không nơi nào sánh được theo nhận xét của Lộc Biếc, và cũng đã chào ba mạ Hoán, chúng tôi về nhà Ka Kring.
Đó là ngôi nhà nhỏ của ông bà ngoại Ka Kring, nay gửi lại cho một gia đình người Bắc di cư. Người cha ruột Chiau Mạa của Ka Kring thỉnh thoảng ghé thăm con gái ở đây, những năm cô còn học tiểu học, trung học, và các dịp hè thời Ka Kring theo Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt. Ngôi nhà được xây kiểu xưa, vách dày, có căn gác gỗ, lợp ngói, nằm giữa khu vườn gồm các loại cây bơ, sầu riêng, mít và cà phê.
Ba mẹ nuôi người Bắc di cư đã già. Những người con của họ đã ra riêng, ở đâu dưới Đa Tiến, Đa Châu.
Chúng tôi, cả Hoán nữa, bước lên căn gác gỗ tối om và ẩm sau bữa cơm tối. Bật ngọn đèn ống trắng, Ka Kring mở các cánh cửa kép, một lá sách bên ngoài, một lồng kính trong. Chúng tôi ngơ ngác khi ngắm các khung ảnh đã quá cũ, nước thuốc trên ảnh đã lỗ chỗ các đốm loang lỗ, trắng mốc, ghi hình những cụ ông, cụ bà, ông bà, cha mẹ của Ka Kring. Các vị hầu hết là chiến sĩ quốc tế vô sản, và một, hai người trong họ chỉ là thường dân. Lâu nay, Nam cứ ngỡ Ka Kring vờ hoang tưởng về nguồn gốc xuất thân. Bây giờ, qua một số cuốn lưu ảnh, gương mặt họ với cờ Quốc tế Cộng sản, chân dung các lãnh tụ vô sản thế giới làm phông, chụp ở nhiều nước, cùng các khung ảnh trên vách kia, anh đã hơi tin.
Ka Kring còn đưa mấy xấp thư của mẹ cô từ Thụy Điển gửi về, bức viết bằng tiếng Việt, bức bằng tiếng Anh cho Nam đọc. Những tờ thư vàng ố lẫn mới tinh. Đó là những bức thư viết bằng ngoại ngữ của mẹ cô, với các từ ngữ thông dụng, chả qua Ka Kring chỉ biết hai ngôn ngữ Anh, Việt ấy (và tiếng cha đẻ, Chiau Mạa). Tiếng Pháp của mẹ, cô chỉ lõm bõm.
Nhưng điều bàng hoàng nhất là các bức tranh do Ka Kring vẽ bằng sơn dầu, màu nước và mực nho!
Tôi ngồi trên chiếc ghế xa lông gỗ mun ngắm sững sờ bức tranh cô mới vẽ gần đây, trong các buổi sáng chủ nhật từ Bảo Nghĩa ra thăm nhà – bức sơn dầu Ka Kring đặt tên: Bão táp và số phận.
Chính Hoán cũng không ngờ, mặc dù Ka Kring khá quen với anh từ tấm bé. Hoán ngắm các bức ảnh cũ kĩ, mươi bức ảnh màu mới, đọc vội dăm bức thư, ngồi sững sờ ngắm tranh như tôi. Không hỏi, nhưng mọi người đều biết chừng, qua bao dâu bể của lịch sử, thư và ảnh vẫn còn bởi không ai ngờ ông Tây, mang hai dòng máu thuộc hệ gần nhất là Nga và Pháp, có bà vợ Tàu lai Nhật, đi khập khiễng với cái tẩu thuốc dưới hàng ria mép rậm, bạc trắng kia lại là cộng sản từng chiến đấu ở các chiến trường tại Trung Quốc và Việt Nam. Hoán chỉ biết qua lời kể của các người già tại Đa Công, ông Tây kia vì tàn tật nên chỉ sống đạm bạc, chẳng kinh doanh gì, chẳng có nhiều mẫu trà như các ông Tây khác.
Tôi ngồi đó chừng đến mươi phút trong cảm xúc đến mức rợn gai ốc về bức tranh của cô giáo lai Ka Kring, bức mới vẽ. Không ai khác, đó là các gương mặt của chúng tôi, có cả ông Binh, cả anh Trà. Ka Kring có trí nhớ khá tinh về diện mạo mỗi người cô hiểu. Những gương mặt bị quay cuốn trong bão táp dữ dội nhưng ngấm ngầm của lịch sử. Lá và hoa vẫn xanh, vẫn thắm trong các luồng gió xoáy mãnh liệt!
Đúng như Ka Kring ước, mưa bỗng rơi xối xả ngoài bóng đêm, trên cây lá quanh nhà, sau các khung cửa kính. Mưa vào mùa! Xôn xao. Náo nức. Chúng tôi nghe tiếng tụng kinh của hai vợ chồng già trước bàn thờ Phật Thích Ca bên dưới. Hình như đây là tuần kinh kệ mỗi tối. Tiếng tụng niệm già nua với tiếng chuông ngân rung, thanh thoát, tiếng mõ trầm đục, khô nặng, trong hương nhang phảng phất lẫn với tiếng mưa đêm, vang vọng.
Ka Kring lặng lẽ pha trà. Cô lại cắm những cây nến hồng, nến trắng vào ba chiếc dĩa lớn, dễ chừng hơn mười cây, đặt trên bàn nước, đặt giữa sàn gỗ và đặt trước một tủ sách. Cách phối trí nến, sau khi tắt đèn ống trắng, tạo nên một không gian ảo giác, vừa cổ kính, vừa hoang đường.
Chúng tôi hầu như không ai nói gì cả một lúc rất lâu. Bất giác, tôi nghĩ, chẳng lẽ Ka Kring đang thiết kế một sân khấu, mà những bức ảnh về những chiến sĩ quốc tế cộng sản kia, bức tranh “Bão táp và số phận” kia, những bức thư, tập ảnh của bà mẹ tóc vàng ở Thụy Điển kia, và cả những lời cô thuật sự nữa, chỉ là những gì tạo nên không khí, phông màn, bối cảnh. Nhất là khi các dĩa nến hồng, nến trắng được thắp lên, rõ ràng chúng tôi đang hiện diện một cách bất ngờ trên một sân khấu. Tôi sực nhớ đã đọc và xem ở đâu đó những trang sách, đoạn phim phản ánh, thể hiện những dạ hội hóa trang, những đêm diễn xuất thi ca.
Tôi đảo mắt tìm xem hình tượng cây thập giá và lưỡi gươm (47), hoặc chính xác hơn, hình tượng cây thập giá và khẩu súng thực dân, đế quốc, ở đâu trong căn gác gỗ đã trở thành không gian suy ngẫm này, nhưng chẳng thấy. Hẳn Ka Kring cảm thấy, ai cũng đã biết quá rõ rồi, nên ở đây không cần nói đến tác nhân kinh khiếp gây nên bão táp và số phận suốt một trăm mười bảy năm (1858 – 1975) và những năm chiến tranh biên giới hiện tại …
Ka Kring thấy im ắng quá, cô muốn đêm chia tay này có chút không khí thơ. Cô nói về bức tranh mới vẽ – bức cô định đặt tên: Nỗi đau chiến tranh, nhưng sau đó đã tạm đặt lại: Bão táp và số phận. Cô nói, trong không gian lung linh ánh nến, khi tuần kinh kệ đã dứt nhưng mùi hương trầm còn thoang thoảng, khi tiếng mưa rơi ngoài vườn đều hạt, về suy tưởng, tâm trạng cô muốn thể hiện vào tranh. Cô không cho là mới, mới gì đâu khi vẽ lại tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, khát vọng hòa bình, độc lập, tự do, khát vọng sống cho ra sống với một lẽ sống hướng thượng. Cô không cho là mới, mới gì đâu ý định thể hiện nỗi đau của những con người cô thương mến. Mới gì đâu khi muốn ghi lại khát vọng, nỗi đau hiện thực ấy, không phải để khơi dậy hận thù chiến tranh, hận thù sắc tộc, hận thù tôn giáo, ý hệ, giai cấp, mà để loài người, mỗi con người nhân hậu hơn, bởi quá khứ lẫn hiện tại được nghiền ngẫm và tái hiện. Đấy là tâm sử của cô từ cảm nhận cuộc sống này, Đa Công này, Bảo Nghĩa này với bao bạn bè từ nhiều miền Tổ quốc đến. Cô nói như một thi sĩ.
Chúng tôi không biết nói gì, chỉ bàng hoàng xúc động, lắng nghe. Tôi vẫn thấy một Ka Kring cũ xưa nhưng mới mẻ một cách táo bạo … Bấy giờ, nhãn quan, thái độ lắm người bị nhiễm nặng chủ nghĩa Mao, với cách tư duy đóng khung và đúc khuôn cứng nhắc trong khái niệm đấu tranh giai cấp (bất cứ cái gì cũng được “dịch” là biểu hiện đấu tranh giai cấp, ngay cả việc đánh giặc, cứu nước). Người ta có thể phê phán Ka Kring đã rơi vào hố bùn của triết thuyết siêu giai cấp, tính người chung chung!
Dẫu sao, đó cũng nỗi niềm chân thành của Ka Kring!
Sau một vài bài thơ, trong đó có thơ Phùng Quán, Trần Quang Long, là một vài bài hát, trong đó có “Sơn nữ ca” của Trần Hoàn (Nam đã mạn phép đặt thêm lời hai, ngọt ngào, nồng ấm, hạnh phúc). Tôi nghĩ lời hai ấy như một lời cầu chúc, ước vọng của Nam dành cho Ka Kring, cô giáo lai xinh đẹp, mực thước, mới, lạ và nghệ sĩ. Có phải đó là lời hứa hẹn giữa Nam và Ka Kring?
Trong một thoáng nào đó, tôi lén nhìn Lộc Biếc trong ánh nến lung linh. Tôi yêu Lộc Biếc da diết với nỗi buồn lặng lẽ.
Đêm ấy, sau khi Lộc Biếc, Ka Kring xuống nhà dưới đi ngủ, tôi nằm cạnh Nam, Hoán và Huyện, dưới tấm chăn bông nhẹ tưng có mùi ẩm mốc. Tôi thao thức mãi. Tôi ôn lại những chặng đường rời làng quê Thuận Xá, Quảng Trị vào Huế, rồi lên Đà Lạt nhận nhiệm sở, bến xe Đà Lạt một sáng sớm có Lộc Biếc, Khúc Văn và hoa diếp vàng trên vách ta luy đá, chuyến lên Đà Lạt lần thứ hai với Nam, những ngày Bảo Nghĩa, cái Tết thành phố Hồ Chí Minh, những ngày có Ka Kring về trường, lại hình dung những chặng đường về lại quê nhà, chỉ ngàn cây số nhưng bao nhiêu vất vả với các tàu, xe rệu rã, các bến xe, bến tàu chật ních người, hôi hám, nhếch nhác. Tôi nhớ cha mẹ, nhớ các em tôi, bà con ruột thịt ở làng quê, “đất không nuôi nổi người, người không nuôi nổi đất” (41) ấy. Nỗi nhớ mênh mang, nỗi nhớ thâm thiết và tiếng mưa, tiếng gió xào xạc dìm giấc ngủ tôi vào khuya, nâng sự bừng thức của tôi trong ánh xanh hồng của nền trời sắp hé rạng.
Tôi tỉnh giấc, nhìn ra cửa sổ, trong tiếng đọc thơ của Nam, lại là bài NGÔI TRƯỜNG THÁNG GIÊNG. Tôi vẫn nằm im, mở mắt nhìn ánh nến hắt vào vách tường, nơi treo những ảnh, những tranh. Nam lại nói, hình như với riêng Lộc Biếc: “Phải có những năm gian khổ thế này để chúng mình tự tin hơn trong các bài giảng, thây mặc những ai vun quén cá nhân”. Tôi tỉnh hẳn, trỗi dậy, xếp lại chăn, cuốn lại chiếu. Ba dĩa nến trên bàn lung linh, sáng rỡ. Hóa ra các bạn đã dậy từ lâu. Tôi ngỡ chưa hề có giấc ngủ với đêm tối, vì nến vẫn chưa lụn, vẫn như đang là buổi tối đầu đêm hôm qua. Tôi xấu hổ xuống nhà sau, đánh răng, rửa mặt. Có lẽ do tôi thao thức quá khuya nên ngủ mê man, dậy muộn.
Chúng tôi lại chào hai vợ chồng già đang mang áo thụng lam chuẩn bị tuần kinh kệ sớm. Trong khi ra cửa, lúc này tôi mới thoáng thấy chân dung Bác Hồ cùng Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ trên vách, một chân dung khác trên cửa ra vào – Trần Hưng Đạo.
Ra nhà ngang, Ka Kring mở cửa cho tôi, Nam và Hoán lấy xe đạp. Trời còn tối mịt, nền trời he hé ánh hồng, đất ướt, cây lá còn đẫm mưa, lành lạnh.
Đến bến xe Đa Công, Hoán vào mua vé với ba chúng tôi, để Lộc Biếc nói chuyện với Ka Kring trong những phút sắp chia tay.
Bên cốc cà phê uống vội, tôi thấy Ka Kring nhìn Nam đam đắm, hồn hậu, với một tình yêu trong sáng, chân thành và công nhiên. Nhưng Nam, cũng như tránh đèo Ka Kring, Nam lại tránh nhìn ánh mắt cô!
Chúng tôi năn nỉ Lộc Biếc cầm giúp chút quà mọn về biếu gia đình.
Đưa Lộc Biếc lên xe về thành phố Hồ Chí Minh trước, tôi cố gắng nói được một câu, như một học trò không thuộc được bài:
- Nghỉ phép một tháng thôi, tháng sau gặp lại nhé.
Lộc Biếc mỉm cười, gật đầu. Thuận miệng, tôi nói thêm:
- Cho gửi lời thăm hai chú thím, Thủ, Thuận cùng Hoàng Lan, Hoa Hồng, cả Tiệp nữa nhé.
Lộc Biếc lại mỉm cười, gật đầu. Cô cũng gửi lời thăm ba gia đình ba mẹ chúng tôi ở Huế, ở Quảng Trị như vậy. Chúng tôi lại chúc Hoán đỗ vào kì thi tuyển sắp tới.
Hoán vẫn đứng bên cạnh xe của Lộc Biếc, còn Ka Kring bước tới chiếc xe về Nha Trang, chiếc ba anh em chúng tôi sẽ đi (về Nha Trang rồi mới mua vé xe hoặc tàu ra Huế, Quảng Trị được). Hai chiếc xe đạp của tôi, của Nam đã gửi nhờ Hoán, Ka Kring dắt về nhà Hoán gần đó, đang dựng kề anh.
Khi tôi và Huyện đã lên xe ngồi, Nam vẫn còn đứng bên cạnh Ka Kring dưới đất. Chiếc váy thổ cẩm hôm nay Ka Kring mặc cũng vẫn cùng màu, cùng vải với áo và mũ: màu đen, làm nổi bật làn da trắng hồng của cô. Lọn tóc bối tó của cô vẫn để lộ chiếc gáy trắng tròn xinh đẹp. Nam, với chiếc mũ kép pi xám tro, áo bỏ vào thùng quần, đôi dép lốp quai vải sợi ni lông bắt chéo. Cả hai trông rất đẹp đôi. Huyện bấm khẽ vào vế của tôi, cười khẽ. Tôi mong cuộc sống trần gian này cứ dễ thương như Ka Kring ước.
Trời hửng sáng, tiếng loa điều phối gióng giả, rè rè. Người phụ lái giục khách lên xe. Lúc Ka Kring đứng bên cạnh cửa sổ của xe, tôi thấy đôi mắt màu nâu trong vắt của cô đỏ hoe, chảy tràn nước mắt trên hai gò má phơn phớt những chấm tàn nhang nhạt màu. Nam cũng rưng rưng, nghẹn ngào. Rồi xe rồ máy, chầm chậm lăn bánh. Tôi mải nhìn theo xe Lộc Biếc chạy phía trước. Tôi nghe loáng thoáng tiếng Ka Kring. Và tiếng Nam rất rõ, nhưng tôi không hiểu gì cả! Chẳng lẽ chỉ là đồng nghiệp, đồng chí, là tình bạn sâu đậm thôi sao! Chẳng lẽ lời hứa hẹn thuộc về nghìn vạn năm sau! Yêu nhau, phải bình đẳng nhân phận trong sự bình đẳng chung? Tôi và Huyện chỉ biết để mặc cho Nam chảy ràn nước mắt, khi xe lăn bánh khá xa, khuất dần bóng dáng Ka Kring (một cô gái lai cụ thể, đâu phải là biểu tượng!). Đến bao giờ, đến bao giờ mới bình đẳng tuyệt đối giữa các quốc gia, nhân tộc, chủng tộc, để bi kịch “tình yêu đương và màu da” (48) không còn nữa? Nam như một người đã chết. Bàn tay vẫy của tôi cơ hồ cũng chết cứng trong gió sớm. Nam ơi, sơn nữ hiện thân của dòng suối Đạ Nga ơi! Tôi lay Nam, ngỡ đang lay một cái xác bất động.
Đến ngã ba Phuốc, tôi mới chợt tỉnh, lắng lại chút xúc động bàng hoàng, một xúc động chẳng hiểu sao lại vượt quá thực tại!
Lộc Biếc đang ngồi trên chiếc xe ngược chiều, hẳn lúc này đã ra khỏi những khúc phố huyện lị, nhưng đã chiếm lĩnh cả tâm hồn tôi, một tâm hồn vừa qua cơn rồ dại!
Xe vẫn băng băng qua những đồi trà trong nắng ban mai. Tôi thở dài. Có lẽ tình cảm đơn phương trong trái tim tôi đã quá ngưỡng nên trở thành lố bịch! Tôi buồn rầu mỉm cười một mình khi thấy mình chưa hề có một người yêu nào cả, chỉ là tình thầm, riêng một mình tôi đắm say, đau đớn.
- Những gã làm thơ đều vớ vẩn cả, Khoai à!
Tôi chợt nghe Nam phàn nàn sau tiếng thở như nấc. Tôi biết Nam tự trào một cách thành khẩn. Sao tôi không nghiên cứu toán học với niềm đam mê như với văn chương?– Câu nói của Nam khiến tôi tự hỏi –. Tôi thấy Huyện mỉm cười.
Xe vẫn bon bon qua các đồi trà xanh lóng lánh, các thửa đất tươi màu đang “bung ra”, nẩy bật chồi từ bao hạt bắp mới gieo như muôn ngàn cây bút. Tôi lại nhớ đến chiếc đũa bị gãy ở bàn học sinh tại chái đầu hồi nhà tập thể trường Bảo Nghĩa, chiếc đũa Huyện đã chua xót bẽ gãy một cách bất giác. Tôi xòe ra trước mặt bàn tay của mình. Cũng vô thức, tôi co lại ba ngón, để ngón trỏ và ngón giữa mở ra hình chữ V. Đó là hai, Lộc Biếc và Ka Kring. Đó vẫn là năm chúng tôi … Đó cũng là chiến thắng của Việt Nam (VN.’s Victory) … Tôi lại liên tưởng quá xa, quá rộng, với một cảm xúc như cảm xúc trước câu chúc của Nam gửi lại cho Ka Kring trong phút chia tay cuối cùng! Một xúc động vượt quá thực tại, như thể nhìn ngắm một cụm mây trắng sáng ngoài khung cửa xe, tôi tưởng như thấy cả bầu trời. Nhưng dẫu sao cũng như cụm mây kia, cả bầu trời Tây Nguyên đang rực nắng thật.
Nhìn mông lung, chìm vào suy ngẫm một lúc khá lâu, tôi lại nói một cách bâng quơ, vớ vẩn, không phải để động viên Huyện lúc này, tuy điều muốn nói lạiï bao ngày da diết trong tôi:
- Một niên khóa dạy học, buồn cười thật đấy, bởi phát hiện ra anh em giáo viên mình còn qua kém về thực tiễn sản xuất, lao động nơi này … Cả hồn, cả xác chưa ra gì!
Tôi thấy bàn tay đã lơi lỏng của tôi bất giác lại mở ra hình chữ V như hồi nãy, cơ hồ chẳng thể khác được. Tôi mỉm cười:
- Huyện à, chính khoa học thực nghiệm, cụ thể là hóa dược của ông, sẽ cứu rỗi tình yêu đương, cứu rỗi Con Người, nỗi đau màu da … cứu lấy tương lai … Và vật lí, sinh học … Đúng vậy, “khoa học – kĩ thuật là then chốt”.
Cùng một trường cảm xúc, Huyện nắm lấy bàn tay tôi, nét mặt chưa bao giờ bày tỏ niềm chấn động sâu và mạnh đến thế. Huyện không cho tôi phi thực tế, rồ dại!
Nam cũng nắm chặt bàn tay năm ngón, có hai ngón đang mở ra hình chữ V của tôi, cười rạng rỡ, rân rấn nước mắt.
Có ai nghĩ ba anh em chúng tôi đang chơi trò con nít buồn cười không? Lúc này, tâm trạng tôi quá đỗi ngổn ngang!
Chiếc xe khách cũ kĩ vẫn chạy trên quốc lộ Hai mươi loang loáng nắng. Tôi ngỡ đang nao nức chèo ghe đua thuyền trên làn nước yêu thương xa lắc, tuy hiện giờ ba chúng tôi ngồi bên nhau lặng lẽ trên xe.
Đó là buổi sáng nơi bến xe Đa Công và trên chuyến xe về Nha Trang năm ấy. Năm ấy đến năm nay, đã gần trọn hai mươi năm, ngỡ trong một chớp mắt!
Trong chớp mắt đó, nổi rõ lên trên nền kí ức một hình ảnh từ câu tục ngữ nghìn xưa, “năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn”, cũng từ câu thơ của một nhà thơ, “như năm ngón tay trên một bàn tay”, càng khắc sâu hơn bức tranh về những gương mặt trong bão táp cách mạng, hoa vẫn thắm, lá vẫn xanh trong bão táp đó – bức tranh của Ka Kring. Bức tranh ấy mãi còn ở trong sâu thẳm tim tôi. Tôi áp bàn tay mình lên lồng ngực mỗi khi hồi tưởng như lúc viết những dòng chữ này.
45
Và làm sao tôi quên được buổi xế chiều trên bờ sông Nhùng, Quảng Trị quê hương, năm ấy.
Về đến làng Thuận Xá quê nhà, tôi phải thay chân xã viên của mẹ để bước vào vụ gặt. Hai bàn tay lại chai rát, đôi vai lại mỏi ê ẩm. Khi bao hạt lúa mới đã phơi vàng trên sân hợp tác xã, tôi vui sướng lãnh phần chăn ba con trâu cày của đội sản xuất thay cha, để sống lại những năm thơ ấu giữa cánh đồng trơ gốc rạ, hai bên quốc lộ cũ đã bỏ phế từ lâu, cỏ mọc cằn cỗi.
Một tay cầm cuốn tiểu thuyết đang đọc dở, một tay cầm chiếc roi hóp mỡ, tôi cho trâu bơi qua sông Nhùng trong nắng xế chiều. Ngồi trên lưng trâu, hai chân thả vào nước mát, thật thú vị.
Ở bến nước, sau khi tắm xong, ngồi trên bậc cấp có lót mấy phiến đá xanh, tôi ngắm trâu dầm mình, quất đuôi vọc nước, đuổi dăm con nhặng cứ chờn vờn trên lưng chúng.
Tôi nghe có tiếng động phía sau, vội quay mặt lại. Nam! Nam đang dựng xe đạp bên khóm dứa dại, nét mặt hết sức thảng thốt. Tôi đứng dậy, chưa kịp hỏi Nam, anh đã kéo tay tôi cùng ngồi xuống bậc bến.
Nắng chiều đỏ ối trên mặt sông, hắt lên gương mặt Nam đang đau đớn, bàng hoàng. Nam không nói gì cả, rút từ túi áo ra một mảnh giấy gấp tư. Một bức điện tín!
Mở vội ra để đọc, tôi sững sờ:
“Ka Kring về quê cha ở Đạ Ân, đã bị FULRO. bắn chết vào tối 15.06 vừa rồi. Đã mai táng tại mảnh vườn nhà cô ấy. Hoán”.
Tôi lặng người, đọc ba dòng chữ của bưu điện đến mấy lần cũng không rõ.
Hai dòng nước mắt của Nam ròng chảy. Nam úp mặt vào hai tay, nấc lên, rồi òa khóc với tiếng khóc Nam cố bưng lại bằng những ngón tay run rẩy.
Tôi cũng không thể không khóc. Hình ảnh cô gái lai Ka Kring xinh đẹp, dễ thương, thông minh, sâu sắc, tài hoa bỗng chói sáng trong niềm tưởng tiếc. Trong hoài niệm của tôi, Ka Kring vẫn hát bài ca hôm nào ngập ánh trăng B’Kẽh! Sao cô lại tha thiết, tin yêu cất giọng giữa vòng tay của những người bạn lai thuở cấp một, cấp hai ở làng Đường Đàn quê Nam, dưới mái trường thời tuổi nhỏ của anh và tôi! Sao Ka Kring lại ngời sáng như cô đang còn sống giữa vài ba gương mặt đậm nét Ma-rốc (Maroc), Pháp, Trung Hoa, mãi còn hồn nhiên nơi lí ức tôi! Những bạn lai ấy trong thời tấm bé của chúng tôi cô nào có dịp gặp gỡ, cũng không bao giờ còn dịp về làng Đường Đàn của Nam để chuyện trò rồi thân quen như bà con, ruột thịt!
Tôi biết nói gì, cũng chẳng thể nói được gì với Nam lúc này. Nam Tây Nguyên K’Hor, Châu Mạ đã cho cô một dòng máu, nuôi dạy cô khôn lớn và đã bắn chết cô, người con gái có tên Ka Kring của chính Nam Tây Nguyên K’Hor, Chiau Mạa.
Tôi khóc, lau nước mắt mặn chát, rồi nước mắt lại chảy tràn. Ba con trâu vẫn vô tư nhơi lại cỏ trong làn nước đã sẫm chiều, nhòa đi trước mắt tôi.
- Mình sẽ vào Đa Công ngay sớm mai.– Nam chợt nói, giọng nghẹn ngào –.
Tôi quay lại nhìn Nam, giọng tôi cũng nằng nặng:
- Dẫu sao cũng muộn rồi, Nam à. Đợi mươi ngày nữa, hai đứa mình cùng vào?
Nam lắc đầu, thở dài não nuột:
- Mình phải vào trước, chỉ để thắp cho Ka Kring một nén nhang. Ừ, thì rõ là đã muộn …
Khi dắt trâu về chuồng, trên đường làng đã nhập nhoạng tối, tim tôi bỗng lóe lên một hi vọng. Tôi nói với Nam, trong chớp lóe ấy:
- Biết đâu, Hoán và Ka Kring đùa Nam đấy! Đã có bao bức điện tín đùa như vậy trên đời!
Nam ớ lên như một chú bé đần độn chợt vỡ lẽ. Nam thốt ra trong tiếng cười đầy hi vọng:
- Ừ, biết đâu! Biết đâu! Mai, ngày mai, mình phải vào lại Đa Công! Biết đâu! Mình vào nhé!– Nam nắm lấy cánh tay tôi, siết chặt bằng hai bàn tay của anh –. Mình sẽ sống suốt đời với Ka Kring tại Đa Công! Cũng có thể, mươi năm sau, đủ tiêu chuẩn, chúng mình sẽ xin về thành phố Hồ Chí Minh, dạy học, làm văn nghệ, và sẽ mở một quán cà phê nho nhỏ, sẽ sinh một hai đứa con. Lớn lên, chúng học xong đại học, sẽ làm nghề cá thể nào đó …– Nam nói như thể anh đã suy nghĩ, trăn trở từ lâu, giọng hơi ríu lại vì nghẹn ngào, hi vọng –. Nhưng trên cả tình yêu đương, hạnh phúc riêng tư, vẫn là tác phẩm, tác phẩm và tác phẩm, Khoai à …– Nam nói, như thể anh ngăn chặn trước những lời can gián từ tôi –.
Và Nam nhảy lên xe đạp, đạp nhanh vào làng Đường Đàn, tưởng chừng muốn bay ngay vào Đa Công.
Tôi hiểu, anh đoán là tôi không thể không nói, nên chặn trước như thế, mặc dù Nam thừa biết tôi cũng như anh và nhiều người khác, vừa quý mến Ka Kring như một người bạn, mong muốn cho cô những điều tốt đẹp, hạnh phúc như bao người chung quanh, vừa ngần ngại những ác cảm vô thức của cộng đồng từng là nạn nhân của thực dân da trắng …
Gió nam nóng mùa hạ đã tắt từ lâu, ngọn nồm lay những tre với hóp một điệu ru êm ả, mát rượi. Con trâu bên cạnh tôi bỗng nghé ngọ trong chiều hôm tĩnh mịch làng quê.
Chính tôi, chính Nam, cùng những bạn bè khác, cũng được Ka Kring “soi sáng”. Tôi mong Ka Kring không bị bắn chết bởi Nam Tây Nguyên K’Hor, Chiau Mạa của cô bao giờ. Tôi cũng mong Ka Kring, biết đâu, đã bay qua Thụy Điển với mẹ, cô gái tóc vàng thuở nào đã chạy trốn cô đơn, ngả vào vòng tay người tài xế Chiau Mạa, nhưng đành lòng bỏ cô lại giữa cô đơn, lạc lõng! Không cô đơn, lạc lõng đâu, Ka Kring! Và đừng, Ka Kring đừng chết để khẳng định mình ở quê hương Đạ Ân với cái chết thảm khốc bởi họng súng Phuyn-rô (FULRO.) như thế! Tôi biết, Ka Kring càng sẵn sàng hơn để lao tới thách thức trước họng súng của bất kì lũ thực dân, phát xít, đế quốc, bành trướng mang màu da nào, nếu chúng trở lại, chưa từ bỏ ý đồ đen tối. Còn có bao nhiêu cách để khẳng định tư tưởng đoàn kết nội bộ dân tộc rất Việt Nam trên đất nước này! Còn có bao nhiêu cách để khẳng định lòng yêu Tổ quốc Việt Nam và riêng Tây Nguyên ruột thịt của Ka Kring! Tôi bỗng nhiên thấm thía nỗi niềm bi kịch đằng sau vẻ hồn nhiên, tự tin, tươi tắn của Ka Kring như một thức ngộ về một Con Người. Nhưng tôi vẫn hi vọng bức điện tín ấy chỉ là trò đùa của thương nhớ. Ka Kring chẳng bao giờ có ý tưởng bi đát đến vậy đâu, Nam Tây Nguyên K’Hor, Chiau Mạa cũng chẳng bao giờ tàn nhẫn với cô như thế. Cô gái lai mực thước, sâu sắc lại rất tài hoa, nghệ sĩ ấy đã sống rất dỗi bản lĩnh với một “chất thép rất tình”. Ka Kring như thế, và chỉ như thế. Tôi trách mình đang suy diễn quá đáng về cái chết của cô, nếu như bức điện tín là đúng.
Tôi bỗng dưng chán ghét biểu tượng cho vạn năm sau, nhưng lại thương mến Ka Kring, một cô gái lai cụ thể, thương mến đến vô ngần. Tôi yêu biết bao chủ nghĩa quốc tế trong sáng, không vụ lợi, không đồng hóa dân tộc, một chủ nghĩa quốc tế không hề mâu thuẫn với chủ nghĩa dân tộc, sự trường tồn của dân tộc và bản sắc dân tộc, trong tình chan hòa các nhân tộc trong nước! Tôi gọi thầm, Ka Kring, Ka Kring, lại liên tưởng đến K’Bẻo, em học sinh mắc bệnh bạch tạng của Nam và của chúng tôi, chợt nghe mình ứa tràn nước mắt …
Đột nhiên, tôi tỉnh người, nghe máu dồn lên đầu, bước chân sững lại, rồi lạnh dọc xương sống … Tôi chẳng dám đạp xe ngay vào làng Đường Đàn để nói với Nam một ý tưởng chợt lóe lên, hình thành rõ nét trong tôi, mặc dù từ lâu chúng tôi đều nhận thức được nhưng nỡ nào quả quyết … Tôi hiểu tâm thức dân tộc mình, và đến lúc này, vẫn thấy đồng bào mình hoàn toàn đúng … Vâng, cho dẫu lí lịch Ka Kring thế nào đi nữa, con cháu của Nam với cô gái lai tuyệt vời ấy, mãi đến muôn đời, vẫn là khách (ngoại kiều) trên đất nước Việt Nam ruột thịt! … Chợt nhận ra mình đang đứng sững, tôi vội rảo bước … Tôi không muốn người bạn thân thiết nhất đời tôi phải rơi vào bi kịch đau đớn nhất, bi kịch hơn mọi bi kịch trên đời này: trở thành khách trong ngôi nhà Tổ quốc! Tôi quyết đêm nay phải mượn xe đạp cho được hoặc đi bộ để vào làng Đường Đàn, nói hết với Nam mọi lẽ … Và Ka Kring ơi, có hiểu giùm tôi không … Vâng, chúng tôi chấp nhận mọi thua thiệt, nhưng làm sao chấp nhận nổi mình là khách trong vòng tay đồng bào! Xin hiểu giùm nhau, Ka Kring … Tôi phải tàn nhẫn đến độc ác để nói với Nam, rồi tùy Nam …
Hơn lúc nào hết, tôi chợt thấy rõ, cũng như ở đáy sâu trái tim Nam, ở thăm thẳm tâm thức bao dân tộc khác trên thế giới, tận trong sâu xa hồn phách tôi vẫn tồn tại một mâu thuẫn, đúng hơn, một giới hạn, giới hạn chính đáng, cho dẫu tôi chả là gì cả!
Tôi đã tự trấn tĩnh lại, chân vẫn chậm bước trên đường làng. Dưới bóng tre pheo, nắng chiều hôm dần tắt càng trở nên mờ tối. Cảm xúc về Ka Kring ngỡ như từ lồng ngực dâng lên, sáng bừng đầu óc. Tôi trở nên tỉnh táo rất bất ngờ. Trong tôi lại có những lóe chớp của suy tưởng. Duy lí. Hơi lạ thường.
Hơn bao giờ hết, lúc này tôi như một kẻ đốn ngộ. Ý tưởng tôi mênh mang rồi đọng lại ở một điểm sáng. Tôi nghĩ đến huyết hệ với mã di truyền phiêu bạt … cũng như bao loài cây cỏ hoa trái. Cây mít thân thương, ruột rà, nghe đâu lại có gốc gác là đất Ấn Độ huyền bí, chói ngời văn minh từ bao ngàn năm trước. Cây dương liễu yêu dấu rất Quảng Trị trắng cát, nghe đâu lại có quê hương nguyên thủy là châu Phi rực rỡ nắng và văn hóa cổ đại. Cũng như nhiều sản vật Việt Nam khác vốn có căn cước là châu Âu tuyết trắng, nhạt nắng và uyên bác, một loài củ ngọt ngào đã trở nên máu thịt Việt Nam, tôi được mang tên chúng, khoai lang, nghe đâu cũng có bản quán là Nam Mỹ xa xôi, đồng hương với những thổ dân da vàng Tân lục địa, phì nhiêu và phong hóa tươi đẹp (49)! Hơn lúc nào hết, tôi cảm nhận được rất rõ, thật rõ sự thiêng liêng của máu, mồ hôi, của bao khúc ca dao, dân ca, bao huyền thoại, cổ tích tự bao giờ đã được sáng tạo và mãi còn đọng lại ở bao làng quê đồng bào Việt Nam, cùng với chất đất, khí hậu, lịch sử độc đáo Việt Nam, thời gian đằng đẵng nghìn đời với sức mạnh Việt hóa vừa sôi nổi, sinh động, vừa êm ả, thầm lặng, một cách rất Việt Nam, là những gì hun đúc nên bản lĩnh, cốt cách dân tộc cho mỗi nhân phận trong năm mươi ba nhân tộc, trên đất nước Việt Nam. Hơn lúc nào hết, tôi hiểu thấu sự khác biệt giữa con người với các sản vật, sinh vật không phải con người. Con người Việt Nam, mấy ai lai với người có gốc nước ngoài! Đồng thời tôi vẫn nghĩ đến thời lượng, chất lượng, mức độ bản địa hóa, dân tộc hóa và tính thuần túy Việt Nam. Hơn lúc nào hết, tôi thấm thía hiểu rõ ý nghĩa của hai chữ Việt Nam bằng chính lịch sử dân tộc: Năm mươi ba nhân tộc từ nhiều nguồn đã cao vượt hơn người về nhân văn, đã vượt (Việt) núi rừng, biển cả để đến xứ sở phương nam, Phù Nam (Nam), rồi cùng bao người dân Phù Nam cổ xưa tạo nên một dân tộc, một hiệp tộc quốc, sau nhiều biên thiên, suốt bốn nghìn năm lịch sử. Vâng, nước hiệp tộc Việt Nam, Việt Nam hơn lúc nào hết!
Tôi đang chậm bước về nhà, nghe lòng mênh mang sau phút choáng váng, trong nỗi suy tưởng hòa lẫn niềm cảm xúc về Ka Kring. Sáng tỏ. Bâng khuâng. Rồi lại phân vân. Và luẩn quẩn. Rồi dứt khoát. Biết làm sao được! Ka Kring ơi, Nam ơi, đêm nay tôi phải bằng mọi cách vào làng Đường Đàn, để tàn nhẫn đến độc ác, nói cho Nam rõ, rồi tùy Nam …
Một lần nữa đôi chân lại sững bước, bởi sức nặng của khối mâu thuẫn đột nhiên trĩu nặng trong tôi. Tôi thầm bảo, có sao đâu, nếu Nam trở thành khách thường trú (kiều dân) trong vòng tay đồng bào hiếu khách, cho dù luật pháp không đành xem là khách. Tôi lại muốn chúc mừng hạnh phúc của Ka Kring và người bạn thân nhất đời tôi, chúc mừng những dự định tốt đẹp Nam đã thốt ra trong bàng hoàng, hi vọng hồi nãy. Tôi chẳng từng khát vọng, xót xa trước bao trăn trở về hạnh phúc của Nam với Ka Kring đó sao! Tôi lại rảo bước. Con đường làng dẫn về nhà sao dài quá đỗi!
Dẫu sao, những dấu cảm vẫn rơi trong đầu, trong tim tôi như mưa từ những chớp lóe của ý nghĩ trên đường làng. Tôi đi nhanh, giục ba con trâu mau về chuồng dưới tiếng tre pheo xào xạc.
Sau khi dẫn trâu vào chuồng, tôi ăn vội chén cơm, liền mặc áo quần dài, đi nhanh qua nhà người anh họ để mượn xe, đạp vào nhà Nam. Đêm đó, tôi chưa kịp nói gì, Nam đã thú thật với những giọt nước mắt, anh không thể nào không tự cấm lòng mình (anh không thể tiếp tục yêu một cô gái lai, lai Nga, lai Pháp, lai Mỹ, lai Tàu, lai Nhật!…), dẫu anh quý trọng Ka Kring đến vô ngần và mong cô suốt đời hạnh phúc. Tôi biết Nam vẫn là người đam mê bốn chữ: thuần túy Việt Nam, kể cả về tư tưởng, tâm linh, nhưng trái tim, đôi mắt anh luôn mở rộng ra với nhân loại!
Đã gần hai mươi năm, từ buổi chiều hôm mùa hạ bên bờ sông Nhùng quê nhà Thuận Xá, và đêm gần khuya tại làng Đường Đàn, Quảng Trị năm bảy chín ấy …
Bây giờ, bên con đường như dòng sông đời ở Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh, lòng tôi đã mở rộng với cuộc sống, một cuộc sống thoáng đãng hơn, trong hơn mười năm mở ra những chân trời mới, mở ra những trang sử mới, những đúng, những sai mới, những vui, những buồn mới, những mừng, những đau mới. Bao niềm vui, bao nỗi đau, bao ý tưởng đúng đắn nhưng hơi quá khích của nhiệt tình thuở xa xưa ấy cũng đã trở thành kỉ niệm tẩm mật, chất mật nhân hậu của thời gian, vốn có trong tâm tưởng con người. Thương và yêu biết mấy tuổi hai mươi của chúng tôi ngày tháng đó.
Khởi viết lúc chín giờ sáng ngày 28.10.1998 (mùng chín tháng chín Mậu dần), viết xong lúc mười bốn giờ mười phút xế trưa 12.12.1998 (hai mươi bốn tháng mười Mậu dần).
Vì lí do kĩ thuật (đĩa mềm vi tính bị mất chữ), phải xếp chữ lại lần thứ hai.
Tác giả tự xếp chữ xong vào lúc mười giờ kém hai phút, ngày 06.04.2003 (05.03 Quý mùi HB.3).
Sửa chữa lỗi xếp chữ xong vào lúc năm giờ mười phút ngày 13.04.2003 (12.03 Quý mùi HB. 3).
CHÚ THÍCH
(1) Vương quốc được gọi là Sơ Ma hoặc Châu Mạ, phiên âm từ hai chữ: Chiau Mạa, có nghĩa là người Mạ. Cư dân thuộc nhân tộc Chiau Mạa cũng như tuyệt đại đa số trong các tộc người K’Hor chỉ có một họ: K’ (đọc là Cơ), với nam giới; Ka (đọc là Ca), với nữ giới; chẳng hạn: K’Đăng, Ka Kring … Xem thêm mục từ Cơ Ho, Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập I, TTBS. TĐBKVN., Hà Nội , 1995, tr. 614; Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, bản in lần thứ hai, Nxb. Thuận Hóa, 1997, tr. 211 – 213.
(2) Thơ bông đùa của Trần Xuân An.
(3) Kì thi tú tài duy nhất được tiến hành theo hình thức trắc nghiệm và chấm bằng máy điện toán IBM., vào cuối năm học 1973 – 1974.
(4) Tên đầy đủ: Đội Thanh niên Ánh sáng văn hóa.
(5)Tác giả: Nguyễn Dữ. Ở đây, nhắc đến yếu tố hoang đường.
(6) Ca dao.
(7) “Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ”: Ta có chút lòng không biết nói với ai.
(8)Ngôi trường tháng giêng, thơ của tác giả tiểu thuyết (TXA., tập Lặng lẽ ở phố, Nxb. Trẻ, 1995); sử dụng để hư cấu nhân vật Nam và nhân vật xưng “tôi” (Đỗ Khoai)... Xin lưu ý thêm: Tất cả các nhân vật trong tiểu thuyết này, đều là hình tượng hư cấu theo phương thức phản ánh hiện thực của văn học. Xin được khẳng định rõ như thế để tránh những ngộ nhận đáng tiếc.
(9) Thơ TXA. (bản phác thảo).
(10) Viết tắt của các chữ: Đội 6, Hợp tác xã xã Bảo Nghĩa, huyện Công.
(11) Nhắc lại câu nói có chơi chữ của Bác Hồ: “Mỹ mà xấu!”.
(12) Nguyên văn: “Tha hương ngộ cố tri”; “Mặt em là quê hương”.
(13) “Lời mẹ dặn”, “Chống tham ô lãng phí” là hai bài thơ của Phùng Quán, in trong tuyển tập Nhân Văn giai phẩm, đã được diễn ngâm trong đêm thơ tưởng niệm Phùng Quán, 17.12.1998, tại Cung Văn hóa Lao động Tp. HCM., do Hội Đồng hương Huế tại Tp. HCM. và Hội Cựu Thiếu sinh quân LK. IV tổ chức.
(14) Bài nói chuyện của nhà văn Vũ Hạnh tại giảng đường I, ĐHSP. Huế, 1977 – 1978.
(15) Nhạc và lời: La Hữu Vang. Các ca từ trong tiểu thuyết này đã được tra cứu lại theo sưu tập của Nguyễn Ngọc Khôi, Trần Đức Tâm.
(16) FULRO.: Front Unifié de Lutte des Races Opprimées (Mặt trận liên minh chiến đấu của các nhân tộc bị áp bức).
(17) Tên thật của một con suối chảy ngang qua huyện Bảo Lộc, Lâm Đồng. Đi trên quốc lộ Hai mươi, từ Đà Lạt về Sài Gòn, ở đoạn sắp đến thị trấn B’Lao, xe phải qua chiếc cầu bắc ngang con suối này.
(18) Nhạc và lời của Trần Chung.
(19) Nhạc Phan Huỳnh Điểu, thơ Bùi Công Minh.
(20) Bài tháng giêng, Tóc bay sương trắng, thơ Trần Xuân An, trong tập Nắng và mưa, Hội VHNT. Quảng Trị xb., 1991.
(21) Thơ Xuân Diệu.
(22) Nhạc Liên Xô.
(23) Nhạc X-trốt-x (J. Strauss, Áo): Beau Danube bleu; nhạc Quy-r-tít-x (E. Curtiss, Ý): Back to Sorriento.
(24) Nguyên văn đã đăng báo sau khi tác giả tự sửa lại: “Cây xanh tình Bác, thiêng liêng” (1976).
(25) Quan niệm thẩm mĩ có tính lịch sử – cụ thể, như trong các tục nhuộm răng, xăm mình (Kinh …), đàn ông xõa tóc dài (châu Âu …), đàn ông mặc váy (Nhật …) …
(26)Câu thơ này chưa tra cứu lại được.
(27) “Tháng chín mưa thơm mùa rét cũ”, thơ Trần Xuân An, trong tuyển thơ ĐHSP. Huế, 1976, bản ronéo, (đã trích in lại trong tập Kẻ bị ném vào bão, Nxb. Trẻ, 1995).
(28)Sống như anh, tác phẩm của Trần Đình Vân, ghi theo lời kể của chị Quyên, vợ liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi.
(29) Tác phẩm của Nhất Linh.
(30) Tên một loại thuốc lá, để kỉ niệm Ngày 30.04.1975.
(31) Ka Đum, thơ Trần Xuân An, trong tập Tôi vẫn ở trên đường, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1993. xem thêm chú thích (46).
(32) Sài Gòn, trưa đi lạc, thơ Trần Xuân An trong tập Hát chiêu hồn mình, Nxb. Đồng Nai, 1992.
(33) Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi.
(34) KTM.: [Vùng] kinh tế mới (vùng khai hoang lập ấp).
(35) Cái bóng, truyện ngắn Endersen, giải thích một cách hồn nhiên, ngây thơ về màu da đen …
(36) Samuel Berket, Trong khi chờ Goldot.
(37) Nhạc và lời: Trương Quang Lục, Định Hải.
(38) Một khoảnh rừng già được làm nghĩa trang, còn được để lại giữa đồn điền trà, trông thật chơ vơ, lẻ loi, nên người ta gọi là Rừng mồ côi.
(39) Trước Cách mạng Tháng tám, vua nước ta chỉ được Trung Hoa phong vương, bị xem như vua chư hầu. Trong thực tế, vua nước ta thuộc các triều đại đều tự xưng đế (hoàng đế), với sự khẳng định chủ quyền Đất nước, sự bình đẳng dân tộc, quốc gia, ngang với hoàng đế Trung Hoa.
(40) B’Lao, một thoáng tiếng hát, thơ Trần Xuân An, trong tập Tôi vẫn ở trên đường, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1993.
(41) Thơ Chế Lan Viên.
(42) “Cử đầu, vọng minh nguyệt; Đê đầu, tư cố hương”.
(43) Thơ Trần Xuân An (bản phác thảo).
(44) Quốc tế ca của Quốc tế Cộng sản: Internationale ([thế giới] có tính quốc tế): Thế-giới-rất-đại-đồng-văn-minh (bảy âm tiết).
(45) The United States of America: Liên bang [ấy] của [:ở] châu Mỹ.
(46) Khúc vào mùa, thơ Trần Xuân An trong tập Hát với đời, ơi thương mến, Nxb. Trẻ, 1996; Ka Đum, thơ TXA., trong tập Tôi vẫn ở trên đường, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM.. Một vài từ thuộc tiếng Chiau Mạa: Pạp: người cha, người bố; sá: gùi mang sau lưng.
(47) Thập giá và lưỡi gươm, đó là một cụm từ xưa nay được dùng để chỉ mối quan hệ giữa Thiên Chúa giáo và chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Trần Tam Tỉnh (linh mục viện sĩ Viện Hàn lâm Canada) sử dụng cụm từ này để đặt tên cho cuốn sách của ông, nguyên bản tiếng Pháp, bản dịch của linh mục Vương Đình Bích, Nxb. Trẻ, 1988. Nhan đề cuốn sách đúng nguyên văn là: Dieu et Çésar (Thiên Chúa và Xê-da [hoàng đế đế quốc La Mã]).
(48) Nhan đề tác phẩm của A-lăng Pa-tông (Alan Paton).
(49) Khoai lang: batatas. Các thông tin khác ở đoạn này, tác giả dẫn theo học giả Trần Quốc Vượng.
TIỂU THUYẾT HƯ CẤU
NGÔI TRƯỜNG THÁNG GIÊNG
TÁC PHẨM THỨ MƯỜI HAI
CỦA TRẦN XUÂN AN
71B PHẠM VĂN HAI
PHƯỜNG BA, QUẬN TÂN BÌNH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆT NAM
ĐT.: [08] 8453955 & 0908 803 908
VIẾT XONG VÀO CHIỀU THỨ BẢY
MƯỜI HAI THÁNG MƯỜI HAI
MỘT CHÍN CHÍN TÁM
TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN
TỪNG CHỮ VÀ TỪNG Ý TƯỞNG CỦA MÌNH
KỈ NIỆM SINH NHẬT BA TRĂM TUỔI CHẴN
THÀNH PHỐ SÀI GÒN – HỒ CHÍ MINH
(12.12.1698 – 12.12.1998)
TƯỞNG NIỆM NĂM THỨ BA
NGÀY MẤT CỦA NHÀ THƠ XỨ HUẾ
PHÙNG QUÁN (ĐÊM THƠ, TP.HCM., 17.12.1998)
KỈ NIỆM SINH NHẬT LẦN THỨ MỘT TRĂM CỦA
NHÀ VĂN ĐỨC E.M. RƠ-MÁC
(ERICH MARIA REMARQUE, 22.06.1898 –22.06.1998)
ĐÂY LÀ BẢN XẾP CHỮ VI TÍNH LẦN THỨ HAI.
TÁC GIẢ TỰ XẾP CHỮ XONG VÀO LÚC MƯỜI GIỜ KÉM HAI PHÚT,
NGÀY 06.04.2003 (05.03 QUÝ MÙI HB.3).
Trần Xuân An
Sinh ngày 10. 11. 1956 tại Huế;
Nhân tộc: Kinh (Việt Nam);
Quê gốc: Quảng Trị;
Tốt nghiệp khoa ngữ văn Việt ĐHSP. Huế (1974 – 1978);
Dạy học tại Lâm Đồng, 1978 – 1983;
Hiện nay, chuyên sáng tác, nghiên cứu
(Hội viên Hội Nhà văn TP. HCM.).
Tác phẩm đã xuất bản và đã đăng kí bản quyền tại Cục bản quyền tác giả văn học nghệ thuật Việt Nam:
1. Nắng và mưa, thơ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
2. Hát chiêu hồn mình, thơ, Nxb. Đồng Nai, 1992.
3. Tôi vẫn ở trên đường, thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1993.
4. Lặng lẽ ở phố, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
5. Kẻ bị ném vào bão, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
6. Hát với đời ơi thương mến, thơ, Nxb. Trẻ, 1996.
7. Quê nhà yêu dấu, trường ca thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1998.
8. Có một nơi lá mãi xanh, tiểu thuyết, Nxb. Hội Nhà văn, 1999.
9. Ngôi trường tháng giêng, tiểu thuyết, 1998, Nxb. Thanh Niên, 2003.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananngoitruongthgieng.blogspot.com/
10. Sen đỏ, bài thơ hoà bình, tiểu thuyết, 1999, Nxb. Thanh Niên, 2003.
11. Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử, trọn bộ 4 tập, 2002 – 2003; Nxb. Văn Nghệ TP. HCM.
http://www.giaodiem.com tháng 11-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm
12. Ngẫu hứng đọc thơ, phê bình thơ, 2003; NXB. Văn Nghệ TP. HCM., 2005
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
Tác phẩm đã hoàn tất bản thảo:
13. Mùa hè bên sông (Nỗi đau hậu chiến), tiểu thuyết, 1997; hai bản đã sửa chữa và bổ sung, 2001 (lần hai) và 2003 (lần ba).
Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com tháng 6-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
14. Thơ những mùa hương, thơ.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
15. Giọt mực, cánh đồng và vở kịch điên, thơ.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
16. Nước mắt có vị ngọt, tập truyện ngắn, 1999.
http://www.giaodiem.com tháng 10-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm
Soạn phẩm biên khảo đã hoàn tất bản thảo:
17. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), thơ – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng (biên soạn – nghiên cứu, phản bác, và tập hợp một số bản dịch, bài khảo luận văn học và sử học về NVT.), 2000 & 2003.
http://www.giaodiem.com tháng 8-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
18. Tiểu sử biên niên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường – “kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp” (từ Đại Nam thực lục, rút gọn), dạng niên biểu, sách dẫn chi tiết, phần I, 2001.
19. Những trang Đại Nam thực lục về Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) và các sự kiện thời kì đầu chống thực dân Pháp… (Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học VN.), chọn lọc, phần II, 2001.
20. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, khảo luận và phê bình sử học, 2002 & 2003. Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
21. Suy nghĩ về một số vấn đề trong lịch sử cổ đại nước ta, khảo luận, 7.2004.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
Tặng thưởng, giải thưởng:
1. Báo Văn nghệ giải phóng, 1975.
2. Giải Sáng tạo trẻ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.
Xin truy cập thêm:
http://tacphamtranxuanangiaodiem.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN
TỪNG CHỮ, TỪNG Ý TƯỞNG CỦA MÌNH.
TRÂN TRỌNG VÀ THÀNH THẬT BIẾT ƠN.
XIN TÌM ĐỌC
CÁC CUỐN SÁCH KHÁC CỦA TÁC GIẢ
KÍNH CẢM ƠN
HẾT