TRAN XUAN AN - NGOI TRUONG THANG GIENG

Tuesday, November 22, 2005

NGÔI TRƯỜNG THÁNG GIÊNG (phần I)

trần xuân an


NGÔI TRƯỜNG
THÁNG GIÊNG


tiểu thuyết
hư cấu




TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN

1998
(bản sửa chữa, bổ sung – 2003)

NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN
2003
(có kiểm duyệt vài dòng trong bản đã xuất bản)


ĐĨA MỀM GHI BẢN VI TÍNH THỨ NHẤT
(nhờ anh Lê Ký Thương và chị Cao Thị Kim Quy xếp chữ
từ bản thảo viết tay
để dự cuộc thi tiểu thuyết 1998 – 2000 do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức)
ĐÃ BỊ MẤT CHỮ!

BẢN NÀY TÁC GIẢ TỰ XẾP CHỮ VI TÍNH LẠI
TỪ 13 GIỜ 15 PHÚT NGÀY MƯỜI SÁU THÁNG BA
HAI KHÔNG KHÔNG BA
MƯỜI MỘT THÁNG HAI QUÝ MÙI
NĂM THỨ BA CÔNG NGUYÊN HÒA BÌNH
XẾP CHỮ (có sửa chữa, bổ sung)
XONG VÀO LÚC MƯỜI GIỜ KÉM HAI PHÚT,
NGÀY KHÔNG SÁU THÁNG TƯ
HAI KHÔNG KHÔNG BA
NĂM THỨ BA CÔNG NGUYÊN HÒA BÌNH
(05.03 QUÝ MÙI HB.3)
TẠI TP. HCM.

Xin tạ ơn ngọn bút,
biểu tượng của sự công chính và liêm khiết trí tuệ.
Xin yêu thương, trân trọng
và bảo vệ
từng dòng chữ mồ hôi nước mắt
của chất xám và trái tim.
TXA.


Lời thưa trước khi vào truyện

Trong tiểu thuyết này chắc chắn có một vài chi tiết khiến độc giả này hay bạn đọc kia không hài lòng. Nhưng biết làm thế nào được, bởi một tác phẩm luôn gắn liền với một giai đoạn lịch sử nhất định, và nhân vật không thể không có cá tính, tư tưởng riêng. Quan điểm của các nhân vật, với tính đa dạng, gồm nhiều khía cạnh, sắc độ cụ thể, không nhất thiết là quan điểm của tác giả, mà chỉ là phản ánh của xã hội. Xin người đọc vui lòng hình dung ra những năm đầu của giai đoạn giao thời, 1975 – 1980, trong bối cảnh Miền Nam Việt Nam…
Trân trọng và cảm ơn.

Tác giả,
Trần Xuân An.





1

Sáng sớm tháng chín năm ấy, thời tiết bắt đầu chuyển qua mùa khô và rét, tôi vẫn nghe hơi nóng từ lưng, từ ngực tỏa ra dưới mấy lần áo, khi ghì xe đạp bên một thềm quán để chờ Huyện dỡ va li, xách tay đặt xuống nền đất tráng nhựa. Nam cũng ghì giữ xe anh, đảo mắt tìm cô gái có chung nhiệm sở với chúng tôi ở huyện Công. Huyện lại qua giúp anh.
Tôi thở phào, chờ những cơn gió lạnh luồn qua mấy khúc phố thổi dịu lại mình. Dốc, đồi, hồ nước. Cao chót vót bao ngọn thông, có lẽ cũng khá sâu nơi các chú cá ẩn mình. Đẹp, lãng đãng sương mù trong trường ca Đăm San, trong truyền thuyết tình yêu Li Ang Bi An (Liang Bian), càng đẹp, lãng đãng sương mù đang rất thật, thứ sương mù phơn phớt, lóng lánh nắng hừng đông. Nhưng tôi làm sao bì nổi người Thượng và dân Đà Lạt vốn quen dốc quen đồi, thư thả, thong dong, có thể nhẹ nhàng, thanh thoát nữa, trong từng bước chân đến chợ, mặc dầu họ đang gùi hoặc vác các loại hàng hóa. Tôi điều hòa hơi thở gấp vì mệt, cũng đảo mắt tìm cô gái đã khiến trái tim rất khỏe của tôi rối nhịp.
Huyện đã vào hẳn trong quầy vé đông chật những khách. Nam nóng ruột cũng vào theo. Thôi thì đành vậy, mặc hành lí, mặc hai chiếc xe đạp nặng nề, cũ kĩ, tôi ghé vào quán gọi một li cà phê đen, một điếu thuốc lá thơm. Đưa tầm mắt lên cao theo vách ta luy bằng đá khối trước mặt, tôi bỗng cảm mến những đóa hoa diếp dại nở cheo leo trên đó. Những hạt mầm phiêu lưu đã nương theo gió, đậu lại kẽ đá, trổ lá xanh, hoa vàng xinh xắn. Tôi hiểu tôi đang ngắm trời ngắm đất để tự đánh lừa mình đây! Dẫu sao cô gái Sài Gòn ấy cũng đã có bạn trai rồi. Hôm trình diện ở Phòng Tổ chức của Ty Giáo dục tôi cứ đinh ninh thế, nhưng mong đừng là thế … Tôi vui biết bao khi biết cô sẽ cùng chúng tôi về huyện Công!
Bây giờ cô gái có tên Lộc Biếc ấy ở đâu? Đã hẹn gặp nhau ở bến xe này rồi cơ mà! Tôi nhớ gương mặt xinh đẹp của Lộc Biếc ràn rụa nước mắt. Cô khóc tức tưởi, còn chúng tôi buồn nẫu người, khi biết chắc sẽ bị xuống dạy cấp cơ sở, thay vì trung học đúng theo hệ được đào tạo, lại không được dạy tại thành phố Trên Trời cao này! Chẳng lẽ sau một đêm, Lộc Biếc đã đổi ý? Biết đâu cô đang cay đắng lên Ty để trả lại quyết định phân công, thực ra chỉ là tờ giấy giới thiệu, trong khi chờ quyết định bổ nhiệm chính thức phải thông qua Ban Tổ chức của Ủy ban tỉnh. Biết đâu Lộc Biếc chỉ là nàng tiên cổ tích, thoáng hiện ở Phố Trời này để động viên chúng tôi, rồi mất hút vào huyền thoại!
Điều tôi biết chắc là tôi đang rơi vào suy đoán, mộng mơ lẩn thẩn. Cái quan trọng và thực tế là rảo quanh bến xe, chen vào quầy vé để tìm cô, Nam với Huyện đã nhanh chân hơn mất rồi. Tôi, một củ khoai miền cát biển Quảng Trị, đã hóa thành tên man di quê mùa, cục mịch, lốc cuốn lên bến xe Phố Trời, ngồi trơ giữa bao khách lạ trong quán cà phê bít tất, để giữ của là mớ hành lí chỉ đáng bán kí cho mấy bà ve chai, đồng nát!
Thôi, đành vậy. Là dân xứ cát, đôi chân chạy rất nhanh, rất bền sức, nhưng bao giờ tôi cũng chậm, cũng lóng cóng trước các cô gái, mặc dầu bước đi của họ luôn dịu dàng, khe khẽ. Tôi mỉm cười buồn buồn.
Chất cà phê pha bắp với hạt cau xay vụn sóng sánh trong chiếc li sành răn nứt, màu trắng ngà. Tuy li đã luộc, nóng bỏng tay, cũng trở nên lạnh ngắt như ai mới thả vào dăm viên nước đá. Tôi cố nhịn, không dám kêu thêm điếu thuốc thơm thứ hai, thứ thuốc hút phải đổi bằng vàng do dân buôn lậu mang về từ biên giới (!). Rút bao thuốc lá thủ công to đùng, đựng những bốn mươi điếu, tôi mở một bên góc bao, kéo ra một điếu, châm lửa. Khói khét lẹt! Thôi thì, cũng thú vị, cứ lặng lẽ nhìn người xứ lạnh vào chợ.
Lát sau, nghe tiếng gọi của Huyện:
- Khoai ơi, mau lên, xe tài một. Có vé rồi, mau lên!
Đứng vụt dậy, tôi nói, khi thấy cả Lộc Biếc và bạn trai của cô, cố kìm lại một thoáng tâm trạng vừa vui vừa buồn:
- Các bạn vào uống chút cà phê đã.
Huyện quay lại, trỏ vào chiếc xe dài, trên tấm gương đầu máy có viết hai chữ “Tài 1” bằng nước vôi đặc pha nhiều keo:
- Thôi. Trễ mất. “Tài 1” có thể là “tài độc nhất”!
Tôi trả tiền, chạy ra chỗ dựng hai chiếc xe đạp bên cạnh hành lí. Mừng, vì nàng tiên cổ tích còn đó. Nhưng cũng buồn vì cũng còn đó người bạn trai bên cạnh cô!
Lộc Biếc sau hai hôm buồn bực, mất ngủ, nom hơi phờ phạc. Cô mỉm cười chào tôi. Tôi lúng túng chào lại, chìa tay về phía Khúc Văn, bạn của cô. Văn nắm tay tôi:
- Cho tôi gửi cô bé khóc nhè Lộc Biếc này, nghen anh Khoai!
Tôi khẽ giật mình, ngượng ngập, định hóm hỉnh nói đùa: “Vâng, tôi có khiếu làm vú em!”, nhưng chỉ im lặng mỉm cười, cuống họng cứ nghẹn lại, nhìn người bạn quê ở Long An mới quen.
- Anh Khúc Văn, quyền quá đó nghen! Cảm ơn lòng tốt, có điều, xin cảm phiền rút lại lời gửi gắm. – Lộc Biếc cười khúc khích –. Cảm ơn anh Khoai.
Tôi, Nam và Huyện cùng cười. Lộc Biếc cũng đáo để lắm đây!– Tôi nghĩ vậy. Huyện nhanh nhẩu:
- Tôi, không theo sự gửi gắm của ai, sự dịu dàng nữ tính vốn yếu đuối của ai, xin tình nguyện nhận trách nhiệm thay Khoai.
Nam nói đùa với sự hạ mình, ngầm ý tự hào:
- Đồng hương, “đồng khói” của tôi đó. Đừng tưởng Khoai là “bở”. Khoai Quảng Trị đã thành Khoai Đà Lạt rồi, sẽ hết nghẹn, đang dẻo, và ngọt như mật đấy. Mặc dù khoai bở mới ngon!
Những tiếng cười giòn, vui vẻ, thân mật vang lên khi chúng tôi đến bên hông xe khách.
Khúc Văn nói:
- Thôi, các bạn về huyện Công nhé. Huyện của mình cách đây mấy mươi ki lô mét thôi. Sẽ gặp lại nhau.
- Sẽ gặp dài dài. Cùng Ty Giáo dục mà. – Nam đáp, rồi chúng tôi bắt tay Khúc Văn –.
Lúc này, tôi mới tin chắc giữa Văn với Lộc Biếc chẳng có gì ngòai tình bạn cùng trường, Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.

2

Xe rời bến, rì rì máy ở số nhỏ để xuống dốc. Tôi ngoái nhìn chợ Hòa Bình đang rực rỡ hoa tươi ở thềm trước, lại quay mặt sang phải, cúi nhìn dăm người làm rau dầm chân trong nước, đang rửa rau quả dưới đập tràn. Xe qua cầu, tôi lại nhìn lên con dốc dẫn lên Trường Phổ thông trung học Thăng Long.
Tôi chợt nghe tiếng chào rõ lớn và gấp gáp:
- Khỏe nghe! Bọn mình ra tiễn các bạn, nhưng trễ!
Bốn cánh tay của chúng tôi đồng loạt thò ra vẫy chào. Nam còn ngoái cổ nói to lời cảm ơn. Thì ra, bên mé đường là những giáo viên ra trường trước chúng tôi một, hai năm. Các bạn ấy đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều về nơi ăn chốn ở suốt hơn mười ngày ở Phố Trời này. Đã dẫn nhau đi uống cà phê chia tay hồi hôm, sáng sớm thế lại còn ra tiễn chân nữa! Với giọng Đà Nẵng nguyên chất, Huyện cảm động nói:
- Bạn bè đúng là “quới nhơn” giúp đỡ kẻ lạc bước xa nhà!
Huyện đã nói thay điều tôi nghĩ. Tôi bâng khuâng nhìn hồ Xuân Hương loang loáng nắng sớm và nhà thủy tạ, lại nhìn những biệt thự ven đường. Tôi muốn thu hết vào mắt cả thành phố Thiên đường với tình bạn cùng trường vừa khiến tôi xúc động.
Xe xuống đèo Pơ Ren (Prenn). Cũng như tôi, Nam đang muốn hút cả đất trời tươi đẹp này vào trái tim đa mang của chính anh? Huyện đang trò chuyện gì đó với Lộc Biếc. Một câu nói của cô khiến tôi giật mình, mỉm cười.
- Lúc mới gặp ở Phòng Tổ chức Ty, Lộc Biếc cứ ngỡ mấy anh từ Vinh hay Hà Nội vào. – Cô chân thành –.
- À! – Huyện cười thành tiếng. – Định sẽ trở thành nghiên cứu sinh ngoài đó nhưng không được. Sau bảy lăm, Huế thuộc sự phân phối hàng hóa của Miền Bắc, cả lưu hành tiền tệ cũng vậy. Bọn này đã lai Bắc kha khá rồi đấy.
- Ngày xưa, Lộc Biếc mê Hà Nội, mê Vinh lắm, mê theo Thơ Mới và Tự Lực văn đoàn ấy … cả của Nam Cao …
- Bây giờ chê? – Huyện hỏi, hơi tinh nghịch –.
Lộc Biếc gật đầu:
- Em thành thật nói là hàng hóa có sức mạnh đáng kể … Nhưng như vậy, gần gũi công nông hơn. Nông dân và thị dân, đại trí thức như mấy giáo sư, trông bên ngoài không khác gì nhau lắm.
- Đấy là ưu điểm? – Nam chen vào –.
- Bình quân ở mức cao hơn, đẹp hơn, biết đến bao giờ? – Lộc Biếc cười –.
Tôi thấy cô hơi mệt mỏi ở nụ cười ấy.
Hơi nước, khói đá từ vách đèo tỏa ra lòng đường. Rất cẩn thận, bác tài bật đèn pha, mặc dù phía trước xe không đầy đặc sương khói. Tôi lén để ý Lộc Biếc, thấy cô vẫn như các cô gái Sài Gòn trước bảy lăm tuy giản dị, kín đáo trong bộ áo quần đã cũ. Tôi hơi xấu hổ về sự tò mò của mình, quay nhìn lau lách, nhìn rễ thông đâm qua kẽ đá đầy rêu ướt, rồi nhìn mông lung những núi đồi, những thung lũng xanh sẫm lá.
Tôi cũng muốn góp chuyện nhưng cứ ngài ngại sao đó.
Hình như thác Pơ Ren đang ở đằng xa.
Dẫu không dạy địa lí, tôi vẫn có thói quen nhìn ngắm bản đồ, cố thuộc một vài đặc điểm của nơi chốn mình đã hay sẽ đi qua, ghé lại. Tôi băn khoăn và bâng khuâng suốt cả mấy tháng từ khi có thông báo chọn nhiệm sở của Phòng Tổ chức Đại học Sư phạm Huế, trước bản đồ Tổ quốc.
Tiếng thác Pơ Ren đổ vang vọng. Nam lẫn tôi tiếc nuối ngoảnh lại. Xe cứ bon bon lăn bánh. Rồi Liên Khương … Rồi Trường Phổ thông trung học Nơ Trang Long của huyện Nông, nơi Khúc Văn sẽ về dạy …
Tôi muốn trò chuyện với Lộc Biếc, nhưng Huyện có bao giờ nhường lời đâu. Huyện đúng là anh chàng trò chuyện rất duyên. Lộc Biếc cơ chừng đã hết buồn ngủ, thỉnh thoảng cùng Huyện và Nam cười giòn giã.
Tôi chợt nhớ vào năm thứ ba đại học, thỉnh thoảng Huyện lên văn phòng khoa hóa, hay các buổi vào phòng thí nghiệm hóa – sinh thực tập, anh có dịp gặp gỡ Sông Hồng, cô sinh viên chuẩn bị làm cán bộ giảng dạy, khá xinh, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội mới được một năm, đang thời gian nghiên cứu đã xin chuyển vào Huế để tiếp tục nghiên cứu, chưa giảng dạy giờ nào. Dần dần, Sông Hồng với Huyện phải lòng nhau. Một sinh viên gốc Huế nói giọng Đà Nẵng, một cán bộ chuẩn bị giảng dạy cũng gốc Huế nói giọng Hà Nội đã yêu nhau dưới mái trường đại học.
Tôi học khoa toán, song mối tình của họ trở thành một chuyện tình lạ, tôi không thể không biết. Huyện đúng là chàng trái dễ làm xao lòng các cô gái.
Tôi nhớ lại, mỉm cười một mình.
- Này, Khoai, ông đang làm thơ phải không? Đọc cho mấy người ở đây (bốn kẻ vừa bị trục xuất khỏi Thiên Đường) nghe, để hoài vọng Phố Trời.
Tôi cười. Có lẽ Nam thấy tôi ngồi im thin thít, đôi khi nhếch môi cười khẽ, nên nói thế để lôi tôi vào câu chuyện của ba người đang hồi lắng lại.
- Chỉ có cảm nhận mơ hồ, chưa thành câu chữ, chẳng dám qua mặt nhà thơ Nguyễn Trần Nam. – Tôi nói, giọng hơi đùa –.
- À, quên giới thiệu với Lí Lộc Biếc, đây là thi sĩ có nhiều bài thơ được nhiều người thuộc nằm lòng: Nguyễn Trần Nam, và đây: Đỗ Khoai, cũng là nhà thơ, rất nông thôn, chuyên viết cho những người chân đất của ruộng đồng, cát biển. – Huyện nói – .
Lộc Biếc tròn mắt:
- Đến những hai nhà thơ trong ba người! Sao tụ hội ngẫu nhiên thế! – Cô nhìn Nam –. Lộc Biếc có đọc thơ của anh rồi đấy … Ồ, không ngờ … Đúng Phố Trời là Phố Thơ, nhiều thi sĩ rủ nhau lên …– Ánh mắt vô nhìn Nam như nhìn người quen cũ –.
Tôi ngượng chín người, song tôi biết Lộc Biếc chân thành, hồn nhiên, không có chút gì châm biếm.
Xe chạy qua những thửa ruộng bắp đang cuối vụ, hai bên đường còn trải ra các khu vườn xanh mượt cà phê, mít, bơ, hồ tiêu. Xe lại cắt ngang những ngọn đồi bát úp xanh kín hàng vạn, hàng vạn gốc trà.
Tôi quên đi câu chuyện “nhà thơ”. Thú thật, tuy có khoảng hai mươi bài đăng báo văn nghệ tỉnh, nhưng tôi vẫn hoài nghi năng khiếu thơ của mình. “Chòi thơ, lều thơ”, có lẽ đúng hơn. Một mái nhà tranh, cần lợp hàng trăm liếp tranh, rồi còn phên, cửa, cột tre, rui, mè tre …! Tôi quên đi, để lòng mình mênh mang, bát ngát với đất trời cao nguyên. Gió lành lạnh lùa vào khoang xe chật chội. Trời nơi đây đang vàng nắng ấm.
Trưa rồi. Thế là chúng tôi rời Phố Trời khá xa.

3

Xuống bến xe huyện lị Đa Công của huyện Công, chúng tôi phải cởi bớt áo ấm, áo khoác. Nắng ở đây vàng óng, rực rỡ. Phố xá có lẽ chỉ cụm lại, bé nhỏ, nhưng khá sầm uất, tuy cũ kĩ vì không được tân trang.
Hôm qua, thức khuya, sáng nay chưa đẫy giấc đã dậy sớm, lại phải bó chân trên xe suốt chặng đường dài, hơn nữa, phải thay đổi cao độ và khí hậu khá đột ngột, sao tôi thấy Lộc Biếc không còn ủ rủ, phờ phạc như hồi sớm. Chúng tôi cảm thấy mừng cho cô gái Sài Gòn này.
Khi vào một cửa hiệu lưa thưa bàn ghế, loại bàn ghế nhỏ của các quán cóc vỉa hè lại được đặt vào nhà mặt tiền, chúng tôi ăn vội mấy lát bánh mì phết bơ đậu phụng, thứ bơ có lẽ do chủ hiệu tự chế biến, uống vội mỗi người một li lớn sữa đậu nành ngát mùi lá dứa thơm. Lộc Biếc lúc này mới cảm thấy rã rời. Cô uống luôn mấy chén trà đặc không ướp hương, sau khi lau mặt bằng khăn ướt.
Huyện cười, nhìn đôi tay của cô đang cho khăn vào túi ni lông:
- Chống mí mắt cho khỏi ríu lại hở?
- Để xem trà của xứ trà tại chỗ nữa. – Lộc Biếc cười đáp –.
Lúc này, tôi mới để ý, da mặt cô sau hơn mười ngày ở Đà Lạt, về gặp nắng ở đây, càng ửng hồng lên. Tôi giấu đi niềm xao xuyến trong lòng.
- Có cầu Trời khẩn Phật để được ở lại huyện lị này không? Xem ra thế mà hay với Lộc Biếc, vì từ đây về thành phố Hồ Chí Minh không xa lắm. – Huyện nheo mắt, cười tinh nghịch –.
Lộc Biếc thoáng tối sầm ánh mắt vì âu lo, hồi hộp.
- Nói trước, đừng buồn. Có khả năng bốn chúng mình sẽ về bốn trường, có trường xa đây lắm, thuộc vùng sâu. – Nam nói –.
Lộc Biếc nén lại tiếng thở dài hay tiếng nấc nghẹn, tôi không rõ, chỉ thấy cô cúi mặt, rưng rưng nước mắt. Nam rối rít xin lỗi.
- Dẫu sao, cũng chịu khổ hết năm học này. Sang năm, chúng mình phải về thành phố hoặc thị trấn, huyện lị. Phải trả chúng mình về đúng vị trí. – Huyện nói, mím môi lại cuối câu, tỏ vẻ bất mãn –.
Khoảng hai giờ xế trưa, tôi và Nam đẩy hai chiếc xe đạp cà tàng cà khổ để thồ hành lí xuống một con dốc, lên một con dốc, Lộc Biếc và Huyện đẩy, níu phía sau, nom thật buồn cười. Lại phải qua một quãng đường phẳng, hai bên nở rộ hoa muồng vàng, chúng tôi mới đến Phòng Giáo dục.
Trưởng Phòng Giáo dục là ông K’Đăng (1), nhưng cán bộ tổ chức là một người Miền Bắc mới được chi viện vào đây, ông Viên.
Số phận của chúng tôi là do ông Viên này quyết định đây. Vị thần số mệnh này có khuôn mặt dài buồn rầu như người bệnh, song đôi mắt rất linh động.
Ông Viên bắt tay từng người, kể cả Lộc Biếc. Ông K’Đăng cũng thế. Sau đó, chúng tôi ngồi quanh chiếc bàn xa lông, cứ hồi hộp chờ sự quyết định của ông Viên. Ông Viên đợi cô nhân viên mang ra trên chiếc dĩa một gói trà hương ngâu với hai gói thuốc lá, một Điện Biên giấy bạc, một Sài Gòn giải phóng cũng có giấy bạc giữ hương. Ông chậm rãi tráng tách bằng nước nóng, châm nước vào bình, thong thả bóc hai gói thuốc. Tôi đoán trà, thuốc đều thuộc tiêu chuẩn tiếp khách.
Ông K’Đăng ngăm đen, tóc quăn gợn sóng với dáng người cao to, nở nụ cười rộng hết cỡ với hai hàm răng trắng bóng, đang nhìn chúng tôi với ánh mắt thân thiện, hóm hỉnh. Có lẽ ông thừa biết tâm trạng giáo sinh đi nhận nhiệm sở.
Ông Viên đặt các tách sứ trước mỗi người:
- Các đồng chí xơi nước. Đặc sản huyện Công đấy.
Quả thật, trà quá ngon. Đây là trà bạch mao, ướp loại hương tuyệt vời nhất, hương ngâu. Trà ở quán đằng bến xe hồi nãy chỉ là trà buồm, lá trà già vò lại.
Ông chìa thuốc hút cho từng người. Lộc Biếc xin phép từ chối.
- Các đồng chí ở xa mới đến, nếu mệt, nghỉ lại đây. Đằng nào cũng đã khai giảng hồi sáng hôm qua. Mai rồi chúng ta làm việc cụ thể. – Ông K’Đăng nói, giọng pha thổ âm –.
- Thưa chú …– Nam lúng túng, muốn biết ngay nơi dạy –.
- Không. Cứ gọi nhau là đồng chí. – Ông Viên ngắt lời –.
- Thưa đồng chí, – Nam mạnh dạn –, xin cho chúng tôi biết nhiệm sở. Chúng tôi cũng không mệt lắm.– Nam sốt ruột giùm cho Lộc Biếc –.
- Đúng là thanh niên! Vậy thì tốt lắm. – Ông Viên nâng điếu cày lên, châm lửa, rít một hơi thật sâu, ngả đầu nhả khói, cười cười –. Chúng tôi đã nhận được thông báo qua điện thoại cách đây bốn hôm. Ngày hôm qua, đồng chí phó Ty, kiêm trưởng Phòng Tổ chức Ty về dự khai giảng tại huyện ta, cũng đã mang công văn về. Các đồng chí còn trẻ, phải hiểu giúp, nhiệm sở tốt ít lắm. – Ông Viên ngừng lại, thăm dò chúng tôi –.
Tôi thấy ba khuôn mặt bạn bè, nhất là Lộc Biếc, đang thật căng thẳng. Cô sắp khóc đến nơi, có lẽ thế.
- Nơi các đồng chí sẽ giảng dạy là một nơi không nằm trong diện bị sốt rét đe dọa, – Ông Viên vẫn thong thả, chiêu một ngụm trà –, nhưng nước sinh hoạt hơi khó khăn.
- Không phải chúng cháu được ở huyện lị hở chú? – Lộc Biếc không kìm được nữa, cô hỏi nhanh, rồi cắn chặt môi để khỏi bật ra tiếng khóc. Cô lại phân bua –. Chúng cháu mới nhận được giấy giới thiệu hôm qua, đâu phải lề mề …
- Không, không phải phạt các đồng chí … Thủ tục đôi khi phải trễ. – Ông Viên cười, lại chuẩn bị điếu cày –.
- Đó là vùng kinh tế mới, gần buôn quê của tôi. Không gian khổ lắm đâu. Yên tâm nhé. – Ông K’Đăng cười –.
Chúng tôi không biết nói gì nữa. Hai chữ “đồng chí” lúc này có nghĩa là phải “đồng ý, đồng tình”, phải chấp hành mệnh lệnh.
- Hoan nghênh tinh thần của các đồng chí. Hãy đợi tôi năm phút.– Ông Viên bỏ dở ý định hút thuốc lào –.
Ông Viên vào chỗ đặt bàn giấy. Lát sau, ông bước ra, nhận bốn tờ giấy giới thiệu từ tay Nam, trao lại một mảnh giấy giới thiệu do ông K’Đăng đã kí tự bao giờ, chung cho bốn người:
- Lần nữa, xin hoan nghênh. Bây giờ, nếu thế, các đồng chí tranh thủ về trường đi. Ở đấy thiếu giáo viên cấp hai nghiêm trọng. Đừng để học sinh chờ, tội nghiệp.
Chúng tôi lại bắt tay. Nam đành xin gửi lại ông Viên một va li to đùng đầy những sách. Ba chúng tôi cũng gửi lại một vài thứ sau khi để chung vào va li của tôi.
Ra đến cổng, gặp chiếc xe hơi sơn xanh đậm chạy vào, chúng tôi dạt qua một bên để tránh. Một người trong xe nói ra:
- Sang năm lên cấp ba dạy, yên tâm.
Chúng tôi ngoái lại, đúng khi xe đỗ trong sân. Ông phó ty vẫy tay chào chúng tôi rồi bước vào Phòng.
Lộc Biếc vừa đi vừa khóc tức tưởi. Tôi lại mừng. Dẫu sao, chúng tôi cũng được về một trường.
- Lộc Biếc muốn về Sài Gòn quá!
- Đừng! Chịu khó, chịu khổ một năm thôi mà.
- Cố lên, Lộc Biếc!
Ngồi trên yên sau xe đạp tôi, cô còn khóc nức nở. Hai xe đạp chở bốn người lao xuống dốc vù vù. Rồi phải dắt xe đi bộ lên dốc. Mồ hôi túa ra dưới lớp áo lót thật bứt rứt, khó chịu. Gió cao nguyên giữa nắng vẫn lành lạnh.
“Đừng để học sinh chờ, tội nghiệp”– Tôi nhớ câu nói của ông Viên, cố đạp nhanh. Vừa hỏi đường, chúng tôi vừa đạp xe tiếp.
Đường tráng nhựa hẹp, vắt qua bao đồi trà. Ở đây mênh mông là trà và trà. Trà với cỏ, cỏ chen giữa trà cũng nhiều lắm! Tôi có cảm giác đau nhói như khi nhìn cỏ lúa.
Qua ngã ba Phuốc, lại rẽ. Qua Đa Thanh, Đa Phát. Những dốc, những suối. Ở xứ này, đừng đèo nhau, mỗi người một xe, chắc chắn rất thú vị. Tôi và Nam cứ thích đi rong ruổi, nên vất vả mang xe đạp vào đây, giờ thấy cũng tiện lợi thật.
Suy nghĩ qua ba, bảy con dốc, tôi mới dám đùa với Lộc Biếc một câu:
- Lộc Biếc thấy chưa, mình đã tự giác “chăm nom” cho “cô bé khóc nhè” rồi đó.
Tôi mong một cái nhéo hay một cái đấm khẽ vào lưng, nhưng không, chỉ nghe thấy tiếng cười trong trẻo của Lộc Biếc. Tiếng cười bỗng nghẹn lại. Tôi biết cô vẫn còn buồn. Nỗi buồn lo khiến tiếng cười của Lộc Biếc chợt tắt ngấm nửa chừng.
Thấy Nam dừng xe lại, Huyện nhảy xuống vệ cỏ, tay xách tay mang, tôi cũng ghé vào, bóp thắng tay. Nam ngồi bệt dưới gốc cà phê đang sót mấy đóa hoa trắng muốt, thơm ngát, nở đầu cành trĩu trái, có trái đã chín đỏ. Bao năm uống cà phê, bây giờ mới thấy trái và hoa! Tôi chọn trái chín nhất, ngắt khẽ, cho vào miệng nhấm thử. Nhớt, ngòn ngọt, hơi chát. Huyện, Nam, Lộc Biếc cũng làm theo tôi. Bốn người đều cười thích thú.
Lúc này, đất trời cao nguyên bát ngát đang chiếm lĩnh chúng tôi. Nơi chốn khoáng đạt này đối với dân ruộng, dân phố ở đồng bằng, ven biển, quả là mới lạ. Bát ngát, khoáng đạt, mới lạ, cả màu mỡ nữa, khiến nỗi buồn lo biến mất. Đằng nào cũng phải đến nơi đã biết trước là phải đến. Không hồi hộp, phập phồng chi nữa. Đó là cảm giác của sự định vị.
Mệt vì nắng, mỏi vì đạp xe, chẳng ai đùa cợt gì nhiều. Nghỉ một chốc, chúng tôi lại lên đường.
Hết đường nhựa, đến đường đất đỏ, lại phải rẽ vào lối đất còn sũng nước, lầy lội, rồi cũng đến xóm trung tâm xã. Chúng tôi sắp đến trường Bảo Nghĩa, cuối xóm này.
Lúc ấy, nắng chiều đã úa dần, gió thêm se lạnh, xa xa đã mờ mờ khói sương.
Theo ngón tay chỉ lối của một người đi rẫy về sớm, tôi thấy văn phòng nhà trường, cũng là nhà tập thể giáo viên, giống như nhà dân ở xóm trung tâm. Mái lợp tôn, phên vách là ván gỗ ghép lại, ngả màu ố xỉn, luốc nhuốc. Rõ là loại nhà đồng loạt được cất lên, cùng một kiểu.
Một số giáo viên Nam chạy ra giữa sân đón tiếp, xách hành lí vào giúp chúng tôi. Có một chị ra cầm tay Lộc Biếc, hỏi han gì đó. Tôi nghe thấy đủ các giọng nói của các miền đất nước.
- Các đồng chí vào văn phòng nghỉ mệt, rồi rửa ráy cho nhẹ người một chút.
Chái sau nhà là nơi đặt bếp núc và bàn ăn tập thể. Điều tôi để ý trước tiên là nước. Dẫu sao, đang cuối mùa mưa. Chiếc khăn mặt của mỗi người hiện lên lớp bụi bẩn hòa với mồ hôi mặn. Tôi ngỡ Lộc Biếc sẽ khóc, nhưng cô đang cười, nụ cười mỏi mệt. Cô đang đăm đăm nhìn xuống ngôi trường giữa vườn dâu tằm, cũng mái tôn vách ván.
- tới đây cùng ở lại đây
ngợp hồn bụi trắng tơ bay vàng … thì …

– Nam ngâm nga rồi cười vỡ –.
Chúng tôi cũng bật cười.
- Đúng là nhà tuyên truyền có cỡ! Mỗi người có một “thì” tuổi trẻ, “thì” ấy nhuộm phấn trắng, vàng óng tơ tằm, quá đẹp! – Lộc Biếc bình thơ, cố hiểu về phía tích cực –.
Huyện buông thõng một chữ “về”, và nói:
- thì … về bệnh viện bài lao để ngồi lẩm cẩm trong đám tơ vò rối rắm!
Tôi buột miệng:
- tới đây cùng ở lại đây
tay thơm phấn trắng thả bay tơ vàng …
đèo em, xe đạp cà tàng
xe vờn trên lá, bạt ngàn trà xanh … (2)

Chưa bao giờ chúng tôi cười giòn đến thế. Lộc Biếc cười đến chảy nước mắt, cô không ngờ tôi làm phép phù thủy để chiếc xe đạp bay theo giấc mộng Trang Chu, xe hóa bướm (chứ không phải Trang Chu hóa bướm như trong Nam Hoa kinh!). Một Trang Chu dấn thân như Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà giáo vĩ đại! Đúng là mượn thơ để nói dễ hơn ngôn ngữ bình thường. Thật ra, tôi chỉ buột miệng thôi!
Vào văn phòng, căn giữa của ngôi nhà, chúng tôi mới được biết người đàn ông lớn hơn chúng tôi dăm tuổi là hiệu trưởng. Anh Giảng, nói giọng Quảng Nam:
- Chúng tôi đợi các đồng chí hơn mười ngày nay. Hiện tại khối cấp hai chỉ có bốn giáo viên, kể cả tôi. Bây giờ có thêm bốn nữa … Ở đây, cơ sở vật chất nghèo khổ lắm. Mong các đồng chí cứ yêu đời như những tiếng cười hồi nãy.
Chúng tôi nói “vâng”. Anh Giảng xem cả chứng chỉ mãn khóa hệ cấp ba đại học sư phạm, cả bằng tú tài IBM. (3) của chúng tôi. Trong khi anh xem, tôi nghĩ thầm, chẳng biết vì sao ở đây giáo viên nào cũng gọi nhau là đồng chí, hết sức hồn nhiên. Suốt mấy năm ở trường đại học, chỉ nghe các đoàn viên Thanh niên Cộng sản khi họp hành mới gọi nhau như vậy. Trong bốn chúng tôi, chỉ có Huyện và Lộc Biếc là đoàn viên (điều này tôi mới biết trên đường từ Đa Công vào Bảo Nghĩa). Tôi đoán, có lẽ tập quán xưng hô ấy được hình thành do một vị lãnh đạo của địa phương, từ khi vị ấy đề nghị như thế.
- Đồng chí Nam với đồng chí Khoai chưa sinh hoạt Đoàn à? – Anh Giảng hỏi –.
- Dạ, chưa, dẫu mấy lần làm đơn, thưa anh …– Nam đáp thay tôi –. Tôi và Khoai kẹt về lí lịch gia đình.
- Tôi hiểu. Nếu ngày mai còn mệt, các đồng chí cứ nghỉ cho lại sức. Nếu khỏe, cứ dạy cho vui. Có anh Quỳnh đây,– Anh Giảng chỉ vào người đàn ông trạc tuổi anh –, đồng chí Quỳnh dạy tiếng Anh, hai hôm nay kiêm luôn văn, sử, phụ trách chuyên môn cấp hai. Sách giáo khoa, thời khóa biểu, các thứ, các đồng chí cứ hỏi anh Quỳnh.
Anh Quỳnh nhìn chúng tôi mỉm cười. Bộ râu quai nón của anh cạo sạch, xanh chân râu, rất dày, trông thật ngộ.
- Vâng, các đồng chí về dạy ở đây, chúng tôi mừng lắm. Đây cũng là trường hợp lạ. Bốn đồng chí đều là giáo viên trung học lại cùng một lúc về dạy ở cấp cơ sở.– Anh Quỳnh nói giọng Quảng Nam y như anh Giảng –.
- Về lương, các đồng chí còn đợi quyết định chính thức mới có. Nhà trường có thể tạm ứng từ quỹ công đoàn. Các đồng chí yên tâm công tác nghe.– Anh Giảng lại nói –. Rồi sẽ vui đất, vui người, có thể vui tình nữa! – Anh Giảng cười hăng hắc giữa tiếng cười của chúng tôi –.
Tiếng cười của anh rất trẻ trung.
Cũng đã trễ giờ ăn tối. Dưới ánh đèn dầu, lúc này tôi mới thấy rõ, giáo viên khoảng ba mươi người, hầu hết là nữ, có cô mới mười tám, mười chín tuổi. Hai người lớn tuổi nhất ở đây, anh Giảng, anh Quỳnh, còn chị Xinh đã về nhà riêng. Sau vài ngày tôi mới hay thêm, thật ra trong đó chỉ khoảng dưới hai mươi giáo viên chính thức. Bữa ăn ấy có cả các đội viên Đội Thanh niên Ánh sáng (4), làm công tác xóa nạn mù chữ.
Đó là bữa ăn Lộc Biếc không tài nào nuốt nổi. Hoàn toàn là bo bo xay vụn để nấu, chẳng thấy hạt cơm nào! Canh rau khoai không có một mẩu thịt hoặc một sợi râu tôm, với vài lát cá khô kho rim. Suốt ngày đói bụng, ba gã con trai cũng thấy ngon miệng, xơi luôn mấy chén, chỉ nghe tạm đủ. Lộc Biếc cố vui, nhưng chỉ nuốt trôi được một chén với cả một sự phấn đấu đáng nể! Tôi cũng cảm ơn thầm hai chị cấp dưỡng đã xay vụn bo bo trước khi nấu!
Vậy đó, khởi đầu cuộc đời giáo viên của chúng tôi là thế. Tôi nhớ mãi buổi chiều đầu tháng chín năm bảy tám ấy, ở vùng khai hoang lập ấp Bảo Nghĩa, mấy tiếng đồng hồ nơi huyện lị Đa Công, và hơn mười ngày trước đó tại thành phố Trên Trời cao. Sau đó ít tháng, tôi đùa, số chúng tôi không được làm thiên thần, không lập được nhiều công, chỉ bảo vệ lẽ phải (bảo nghĩa)!

4

Sau một tuần lễ, Lộc Biếc đã quen với nếp sinh hoạt và giảng dạy của Phân hiệu A này. Trường có bốn phân hiệu, nhưng chỉ một phân hiệu ở đây có cấp hai. Cô chỉ dạy ba lớp, chủ nhiệm lớp chín cuối cấp. Nam dạy sử bốn lớp. Lớp bảy, Nam dạy văn lẫn sử, dẫu văn không phải là chuyên môn. Đó là lớp anh chủ nhiệm. Huyện dạy hóa trọn khối theo chuyên môn được đào tạo, lại kiêm thêm chính trị – đạo đức cho hai lớp. Tôi dạy toán cho cả bốn lớp, lại chủ nhiệm cho lớp sáu, đầu cấp!
Cũng trong nhóm giáo viên cấp hai, Hoán, gốc Nghệ An di cư, dạy lí và thể dục, cô Lụa, người Bình Định, gia đình cha mẹ sinh sống ở Đà Lạt đã lâu, dạy sinh và địa, kiêm tổng phụ trách Liên chi đội Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh của cả bốn phân hiệu.
Ban giám hiệu chỉ hai người, anh Giảng và cô Phước. Cô ấy quản lí các giáo viên thuộc khối cấp một, cũng là nội trợ chính của nhà tập thể chúng tôi. Về mặt nội trợ này, cô hiệu phó đã hướng dẫn cụ thể từng ngày cho hai cô cấp dưỡng người địa phương Bảo Nghĩa, tuy nhà chỉ mười mấy miệng ăn thường xuyên.
Lộc Biếc ở cùng gian nhà với các cô giáo. Các cô chỉ có chung hai chiếc bàn làm việc. Những chiếc giường cá nhân có ngăn đựng áo quần dưới đầu nằm kê dọc theo vách gỗ, loại một và hai tầng.
Gian nhà nam chúng tôi rất hẹp, đều giường hai tầng, bàn làm việc là bàn học sinh. Năm thầy giáo như năm chú học trò mỗi tối.
Nền nhà bằng đất. Hoán bảo, lúc này đang cuối mùa mưa, còn đỡ khổ. Đến mùa khô, Hoán cười, mấy ông mới biết mùi bọ chét. Ông nào thịt “thơm”, bọ chét “chiếu cố” rất kĩ! – Hoán thông báo điều này rồi lại cười khùng khục –.
Không biết Lộc Biếc đã được cô Lụa hay các cô giáo khác nói về nạn này chưa. Tôi chỉ sợ mỗi bệnh sốt rét cho cô ấy, nhưng ở đây an toàn rồi, còn bọ chét ăn thua gì.
Mỗi sáng sớm, cánh con trai chúng tôi sau khi tập thể dục theo sự điều khiển của anh Quỳnh, phải chạy xuống cuối chân đồi, nơi có khe nước nhỏ trong vắt và vòi nước ngầm đóng vào đáy đồi, nước tuôn rả rích quanh năm, để đánh răng, rửa mặt. Đó cũng là nơi tắm, giặt. Cánh con trai chẳng bao giờ cần đến phòng tắm như các cô, mặc dù gió lạnh, nước buốt như nước đá tan ra. Buổi trưa, nắng gắt, tắm nước này rất khoái.
Cuộc sống xem ra cũng dễ chịu.
Một đêm, nằm trong chăn, anh Quỳnh hỏi:
- Mấy ông có chịu thấu nơi này không?
- Quê nhà tôi còn khổ hơn, anh à. Chỉ khá hơn hai cái cơ bản, nước và gạo, còn nhà cửa lại rách nát hơn. Quảng Trị là nơi không còn một viên gạch nguyên vẹn. Tôn lợp nhà, nếu không trát các lỗ đạn, lỗ miểng, là cả một “trời sao sáng”. Nhà tôi, nền xi măng, đã thành nền đất … Tôi chả thấy khổ gì cả. – Nam hết sức chân thành –. Sợ quái gì cái khổ!
Tôi cười, chia sẻ với Nam điều anh vừa nói. Nam với tôi, tôi biết, khổ mấy cũng chịu nổi, chỉ mong có cảm hứng thơ rồi viết được thành thơ. Sức khỏe, khả năng chịu đựng của Nam, của tôi, quá thừa, chỉ thèm sách, báo chí, nhất là vốn sống.
Hoán cười khùng khục trong chăn ở giường trên:
- Ông Nam chịu chơi quá. Nhưng còn buồn nữa. Buồn là khổ nhất. Ở đây buồn lắm.
- Mình cũng sợ buồn, nên cố gắng mang xe đạp vào để đi rong, la cà các chốn. Mình sợ đơn điệu, ngày nối ngày đều đặn.
Hoán vùng dậy:
- Nam chịu chơi thật đấy. Xem ra ông đâu phải tuổi ngựa như tôi?
- Mình cầm tinh con khỉ. – Nam tỉnh bơ –.
Anh Quỳnh cười to, song kịp kìm lại, vì đã vào giờ ngủ:
- Thảo nào! Chọn đâu không chọn, chọn rừng làm nhiệm sở! Khỉ về rừng, tha hồ bay nhảy!
Mấy anh em, cả Huyện và tôi, cười trong chăn đến rung cả giường. Anh Giảng ngủ riêng ở văn phòng, căn giữa, chẳng hiểu chúng tôi cười chuyện gì, ngồi dậy kéo thuốc lào sòng sọc.
Cũng suốt tuần lễ vừa rồi, Huyện là người thứ hai, sau cô Lụa, thường xuyên chuyện trò, động viên Lộc Biếc. Điều này khiến tôi buồn, nhưng tôi nào ghen tị gì với Huyện. Nam bỗng dưng trở thành người cùng chuyên môn với cô, thỉnh thoảng chạy qua căn nhà nữ, ngay cả lúc lên đèn, để hỏi cô cách soạn giáo án ngữ văn. Tôi biết tỏng Nam kiếm cớ để chuyện trò cùng Lộc Biếc. Điều này cũng khiến tôi buồn, nhưng thấy rõ là Nam hơi kì. Có lẽ Nam cũng cũng hơi ngượng vì việc đó, nhất là ngượng với Huyện.
Sẵn chái đầu hồi để trống, Nam xin anh Giảng chuyển hai bộ bàn ghế trống ở lớp chín của Lộc Biếc lên, ghép vào nhau, để khối cấp hai sinh hoạt chuyên môn, chấm và soạn bài. Đó cũng là nơi chúng tôi hát nhạc, đọc thơ, tán gẫu.
Sinh viên cao đẳng học hai khoa tương cận, còn chúng tôi chỉ đi sâu một khoa. Anh Quỳnh nghe đâu mới có hai chứng chỉ cử nhân, chưa hoàn tất bậc đại học học thêm ngoài đời, đã đi dạy, sau khi bỏ học viện Tin Lành, quyết sẽ không làm mục sư nữa. Hoán theo khoa lí, cùng khóa với Lộc Biếc, có điều đến năm thứ hai đã nghỉ học vì chán nản bởi một nguyên nhân riêng tư nào đó. Cùng trường, tuy nhiên Hoán với Lộc Biếc chỉ nhớ mang máng là có học chung chính trị chính khóa sau Ngày Thống nhất. Đúng ra, chỉ mỗi một mình Hoán nhớ cô sinh viên Lộc Biếc xinh đẹp, hát hay. Còn cô Lụa mới tốt nghiệp cao đẳng ở tỉnh nào đó, chỉ dạy được hơn một học kì trong niên khóa trước.
Sinh hoạt chuyên môn thế này rất tốt cho cả nhóm, có điều kiện để nắm vững học sinh từng lớp, để trao đổi về giáo án, cũng để chuyện trò vớ vẩn đủ điều cho đỡ buồn.
Anh Quỳnh đã gần tuổi ba mươi, có gia đình riêng từ lâu, nên trở thành người anh cả. Vợ con anh ở ngoài huyện lị Đa Công. Chị ấy là công nhân một xí nghiệp trà quốc doanh.
Tuần lễ vừa rồi, Lộc Biếc nhớ nhà quá đỗi. Đây là lần đầu tiên cô xa nhà lâu đến thế, đã gần hai mươi ngày. Cô chưa bao giờ sống đời sống tập thể. Những năm đại học, cô chỉ có nhiều lần đến thăm các bạn ở kí túc xá.
Chiều hôm kia, đang soạn giáo án, cô bỗng nhìn xa xăm, mắt rưng rưng. Có thể cô liên tưởng từ một câu thơ, đoạn văn nào đó. Nỗi nhớ và buồn chưa khuây dễ có những liên tưởng quá xa, vượt khỏi những gì gợi nhớ, gợi buồn, ngỡ như vô cớ. Đang tập trung tinh thần, với giáo viên ngữ văn, không chỉ trí tuệ mà cả năng lực cảm xúc nữa, bỗng nhiên Lộc Biếc rơi hẫng như đang đi xe bất chợt xe xuống dốc, như đi máy bay gặp chỗ rỗng giữa trời bất chợt tụt cao độ, hành khách có cảm giác rơi, rơi bàng hoàng, ngơ ngác. Lộc Biếc đang rơi về một xóm nhỏ gần đường ray xe lửa ở Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh, nơi cô sống suốt thời thơ ấu đến khi tốt nghiệp đại học. Nơi ấy, có mẹ cha và hai em, bà con xóm giềng, có bao kỉ niệm học trò. Có lẽ Lộc Biếc cũng có một người yêu để nhớ? Cô đang chờ thư chăng? Hôm chủ nhật, anh Giảng ra Đa Công, cô và ba chúng tôi đã gửi thư về nhà, nhờ anh ấy bỏ thư ở bưu điện ngoài đó cho thư đến nhanh. Gia đình cô hẳn đã biết địa chỉ của cô rồi.
Những lúc như thế này, Huyện bao giờ cũng nhạy bén, sẵn lòng chìa tay cho người bạn đang rơi níu ấy. Huyện đưa ra một câu nói để nỗi buồn nhớ của Lộc Biếc bám vào:
- Nhớ nhà, phải không?
Vuốt nhẹ hai giọt nước mắt về phía góc mũi trên, cố ý giấu trong cử chỉ chống tay vào trán, cô đáp, mặt không ngẩng lên với nụ cười gượng:
- Nhớ ba má, nhớ cả chồng con nữa.
Huyện phá ra cười:
- Nhớ ba má, đúng rồi. Nhưng nhớ chồng con là nhớ giùm thiên hạ. “Cô bé khóc nhè”, bày đặt chồng với con!
Chúng tôi, cả cô Lụa, Hoán và anh Quỳnh, anh Giảng đều cười.
- Thật mà! Lộc Biếc có chồng từ năm kia, cũng có con rồi đó. – Lộc Biếc nói với nụ cười –.
- Bộ tìm lí do để xin thuyên chuyển về dưới ấy? Định man khai lí lịch phải không?
- Thật, không tin thì thôi. Hỏi anh Giảng đây nè. – Lộc Biếc nháy mắt trong lòng bàn tay như thể đang che cho khỏi chói, bàn tay cô đang chống trán nãy giờ –.
Anh Giảng đang hí hoáy soạn giáo án chính trị – đạo đức, bắt gặp cái nháy của Lộc Biếc:
- Hôm trước, tôi có ra gặp ông Viên. Ông Viên cũng nói … – Anh Giảng ngừng lại, cười tủm tỉm –.
Nam hỏi:
- Nói sao anh? Lộc Biếc chắc đã có con đàn cháu đống rồi. Em cũng đoán vậy. Cô ấy thuộc nòi Tiên nên trẻ mãi không già, trường sinh bất tử.
Lộc Biếc gật đầu:
- Đúng vậy, em lên chức “bà” lâu rồi chứ bộ.
- Tự hạ xuống làm “em” để tự nâng lên làm “bà”, khéo quá đó nghe! – Nam trả miếng –. Tôi xin tố cáo sự man khai. Đó chỉ là hợp lô gích của thần thọai.
Chỉ có Nam, Huyện buông bút, những người còn lại đều vừa làm việc vừa cười. Đến lúc này, đã thân quen, tôi cũng bớt lúng túng để góp chuyện:
- Lộc Biếc dám “bám trụ” ở đây, đúng là “nàng tiên dũng sĩ” rồi … Mọi lô gích đều vô nghĩa.
- Hai cộng hai thành bảy mươi tuổi nhưng cũng chỉ hai mươi hai tuổi.– Hoán nói –. Toán học của ông Khoai có nghĩa gì!
- Hai cộng hai thành một thôi! – Cô Lụa nói –. Sao tôi thấy bốn đồng chí này giống nhau quá.
- Sự phân bào trong nháy mắt, nói theo chuyên môn sinh vật của Lụa, một tách ra hai, hai tách ra bốn. – Hoán nói –. Tôi cũng thấy vậy. Thần thoại hay liêu trai đây?
Tám người cười ngặt nghẽo. Anh Giảng nói:
- “Truyền kì mạn lục”(5) Trường Phổ thông cơ sở Bảo Nghĩa! Hơi ma quái rồi đó. Thôi, xin can các đồng chí. Soạn giáo án cho xong đi. Tối nay không mưa, trăng sẽ rất đẹp. Mặc dù không tin, nhưng tôi “rét” chuyện ma lắm.
Quanh hai chiếc bàn học sinh ghép lại, tám mái đầu cúi xuống trang sách và vở giáo án. Đây là chái đầu hồi, sát với gian nhà nam, ba bề đang vàng nhạt nắng, nhuốm vàng lên màu xanh cây cỏ. Những người từ trụ sở Ủy ban nhân dân xã ngoài kia, hay ai đó đi ngang qua theo lối nhỏ trước sân nhà đều có thể thấy các thầy giáo, cô giáo trẻ đang làm việc.
Tôi đã xong. Giáo án toán thường ngắn gọn. Suốt tuần lễ nay, tôi cố tìm cách dạy cho sát hợp với trình độ học sinh cấp hai, lại là học sinh ở địa bàn này. Tôi xếp sách vở, bước ra sân, thích đi loanh quanh một vòng. Muốn nghĩ thêm về cách dạy, nhưng hình ảnh Lộc Biếc sao cứ hiện ra trong tâm tưởng! Tôi cảm thấy buồn cho mình. Lộc Biếc là người con gái thứ ba tôi trót yêu thầm. Dẫu sao, Huyện đã nhanh chân chiếm ưu thế, và theo một quy ước không một lần thành văn bản luật, tôi lẫn Nam đều rất “khó coi” nếu chen chân vào quan hệ chưa là gì cả giữa Huyện với Lộc Biếc. Huyện đẹp trai, cao to, ăn nói duyên dáng, hóm hỉnh một cách rất đàn ông, lại khéo nắm bắt những nét tâm lí quá tế nhị của người nữ. Huyện với Lộc Biếc thật cân xứng thành đôi. Thử hình dung Lộc Biếc hơi vói hai cánh tay lên đôi vai cao, rộng của Huyện, là tôi buồn đến ngậm ngùi, tuy điều ấy chưa xảy ra.
Nghe Nam nói, Nam nghe Lụa kể, suốt tuần lễ rồi, Lộc Biếc cứ thỉnh thoảng đem ra nhìn mấy chiếc áo dài, mẹ cô đã dành dụm tiền cho cô may sẵn để mặc khi lên lớp. Chỉ nhìn, rồi rưng rưng nước mắt! Dạy ở vùng được gọi là kinh tế mới, thật ra, là khai hoang lập ấp, trường ốc đầy bùn bụi, học sinh nhem nhuốc, chân đất, áo sờn vai, sút cúc, sẽ lố bịch biết bao nếu cô giáo, thầy giáo ăn vận quá chải chuốt, tinh tươm. Quần áo còn thơm mùi lụa gấm, dày, phẳng, như đáng lẽ phải thế với các cô giáo, nếu đặt bên cạnh các manh vải rách, cũ mèm của học sinh, sẽ là một sự tương phản rất gắt. Làm sao nỡ lòng! Dẫu các em vẫn hồn nhiên, có thể rất “ngưỡng mộ” với trăm đôi mắt sáng tròn xoe, đăm đăm, sững sờ, nhìn cô giáo như nhìn thần tiên, cô giáo vẫn nghe thắt lòng. Ai nỡ tự yêu mình một cách ích kỉ đến thế! Những tấm áo dài đành bị xếp lại. Thành phố Trên Trời cao chỉ là nơi mơ ước. Thực tại là rẫy nương, bùn lầy, bụi bẩn, là những em học sinh hồn nhiên trong cơ cực, túng thiếu. Lộc biếc bỗng đẹp ở chiều sâu của lòng nhân ái – bình dị ở đây là nhân ái – như các cô gái mười tám, đôi mươi, vốn là thị dân, vào đây giảng dạy, đã nhân ái.
Nghe Nam kể lại, tôi run lên trong cảm xúc bàng hoàng vừa phát hiện được một tấm lòng cao cả.
Lộc Biếc, em có hay tôi yêu em biết chừng nào không?
Tôi ngỡ thốt lên trong đáy trái tim mình câu hỏi ấy, đang khi nắng nhạt buổi chiều đã úa dần, sương khói đã mờ mờ xa xa trên màu xanh lũng đồi.
Ở đây không thấy hai cô cấp dưỡng trồng ngò, chỉ xanh um mấy luống sả, tôi cúi xuống bứt khẽ một ngọn lá, thắt ruột nhớ hai câu ca dao:
run tay ngắt một ngọn ngò
thương em đứt ruột giả đò ngó lơ!

Tôi không ngó lơ em, nên càng đau hơn mười lần ruột đứt.
Vào văn phòng, với tay lấy điếu cày, châm lửa, sau khi se tròn mẩu thuốc lào trong hai ngón tay thơm cay mùi sả, tôi kéo đẫy hơi. Say ngây ngất, lao đao. Không phải vì khói thuốc, tôi vẫn cay trào nước mắt. Cũng không phải vì hương vị của sả đâu.
Tôi và Nam, lớn lên dưới mưa bom, bão đạn lẫn thiên tai đói nghèo của quê nhà Quảng Trị, quen khổ đi rồi, có gì đáng nói. Lộc Biếc và Huyện của Sài Gòn, Đà Nẵng – Huế, bỗng sáng lên vẻ đẹp nơi đây, khiến phần tối ti tiện trong tôi cũng được bừng sáng, ánh sáng của thăng hoa. Tôi có cao thượng rởm không nhỉ.

5

Tôi chen chân vào quầy vé, đứng sau lưng Nam. Bến xe Đa Công chỉ bán mỗi người một vé, dù có mười công lệnh trong tay. Hai giấy công lệnh này tôi với Nam mượn được từ anh Quỳnh và Hoán.
Trời cao nguyên lạnh, vẫn phải toát mồ hôi mới có vé ngồi lên xe khách! Nam rủ tôi lên Đà Lạt chuyến này để khỏi mơ hồ gì nữa. Phải xác định rõ ràng, được, không, để yên tâm công tác. – Nam nói thế, khi xe bon trên đường ướt đẫm mưa.
Đà Lạt cũng mưa. Xe đến nơi lúc trời nhập nhoạng tối.
Hai anh em ăn cơm dĩa, bụng đã lưng lửng tạm yên, kéo nhau ra nhà thủy tạ uống trà, ngắm khói sương trong ánh đèn soi xuống mặt nước. Nam bỗng ít nói hẳn, dẫu mưa đã ngớt, cảnh hồ đang lúc rất đẹp.
- Nam, tỉnh táo lại! Nếu như ông Tung, cán bộ Phòng Tổ chức, đã xác định rõ cho ông: lí do lí lịch, ông còn băn khoăn làm gì. Có nhiều người còn không được bổ nhiệm kia đấy.
Nam nói:
- Ừ, bao nhiêu lần viết đơn theo sự gợi ý của chi đoàn trong lớp, vẫn không được kết nạp. Rõ rồi. Định phận hay biết phận rồi. Tuy nhiên … dù ông Tung bên Ty Giáo dục đã nói thẳng sao người ta vẫn nói để xem sao, đang nghiên cứu … Đó là “ông Tuyên huấn” nói: “Hãy chờ”. Chờ thì rất mệt! Mệt lòng lắm. Này, Khoai, thật ra thế này, khi mình đi nhận nhiệm sở, có luôn hai người bỗng dưng viết thư giới thiệu, một nhà văn cách mạng, một thầy giáo cách mạng. Mình rất bất ngờ. Nhưng rõ là về làm báo sẽ rất có lợi cho việc văn chương. Đi nhiều, biết nhiều, vốn sống nhiều, nhờ vậy văn thơ không khánh kiệt đi, lại dồi dào hơn. Sau này có Hội Văn nghệ tỉnh, sẽ chuyển về làm thuần văn nghệ. Đó là nhà văn ấy bảo ban. Nhà văn ấy còn bảo: “Nói theo một triết gia làm văn chương, rằng giáo dục là nơi sa lầy của nhà văn, vì quy phạm, vì đơn điệu. Quy phạm và đơn điệu sẽ bóp chết sự bứt phá, cách tân, sáng tạo”. Mình nghe, nhận thư tay, mở ra đọc thử, thấy rất sướng. Không còn gì vui hơn … Khi mới đến Đà Lạt với ông, mình cùng ông đi trao thư. Và được hứa hẹn … Thà là trả lời phứt đi cho xong! Như kết nạp Đoàn, cũng xác quyết phứt, để người ta yên tâm tính chuyện khác. Mình ghét sự chập chờn, sống trong lời hứa hẹn dối trá. Đấy là tra tấn nhau. Rất mệt. Lần này, quyết làm rõ, để yên tâm cam phận, kẻo rồi người khác lại bảo mình không có ý thức phấn đấu, không có chí nguyện văn chương, đã được mở lối mà không đi. Do mình, chứ chẳng ai cản chân, chặn lối mình …
Đang im lặng, không nói gì, bỗng dưng Nam tuôn ra một thôi dài, như trút hết nỗi ấm ức, nỗi ấm ức của một người vốn không tha thiết gì ngoài văn chương, đấu tranh cho lẽ công bằng ở đời, lại nghẹn lối trước sự bất bình đẳng vừa úp mở vừa công khai … Hơn ai hết, tôi hiểu Nam. Tôi không được ai giới thiệu bằng thư tay cả, có lẽ do tôi kém tài thua Nam. Có điều, lí lịch cha anh tôi cũng “ngụy từ Pháp đến Mỹ” như Nam, tôi cũng có khát vọng văn chương như Nam, cũng gặp khó khăn như Nam. Tôi cam phận song Nam còn hi vọng. Và tôi cũng nhận thấy lời khuyên của nhà văn cách mạng ấy đúng. Thôi thì, Nam cũng có lí, cứ để lần này thử xem.
Tôi nhìn ra ánh đèn cao áp và đèn ống trắng bên dãy quán Thanh Thủy, sương khói với mặt hồ Xuân Hương lung linh trong đêm tuyệt đẹp.
- Khoai nghĩ sao?
- Đã cùng ông lên đây rồi, nghĩ sao nữa. Thử xem. Nhưng dẫu sao đi nữa, không ai có thể cấm bọn mình viết được. Báo ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn vẫn trang trọng in thơ ông kia mà. Mình cũng được đăng thơ. Đấy chỉ là điều kiện thuận lợi thôi, nếu làm báo, công tác ở Hội Văn nghệ. Mình muốn nói, được vậy sẽ rất thuận lợi. Dạy học, không thuận lợi bằng. Chỉ là nghiệp dư thôi! Có điều, dẹp đi nỗi đau riêng để thơ trải ra với cuộc sống có lẽ hay hơn, cao cả hơn. Không phải mình nhắc ông điều ông khuyên mình.
- Ừ, mình đã khẳng định với nhau từ bao giờ kia mà. Có tác phẩm hay, cho dù lí lịch gia đình mình thế nào đi nữa, cũng chẳng ai phủ nhận, lãng quên được cái gọi là tâm huyết, là “thông điệp” gì gì đó trong tác phẩm của mình, Khoai hở?
Nam châm một điếu thuốc, mỉm cười. Tôi biết Nam khá tự tin, tự tin một cách có cơ sở. Nam được rất nhiều tấm lòng của nhiều nhà văn, nhà thơ tài năng mến và quý, liên tài, ái tài. Nam được ấm lòng vì sự thương mến, quý trọng đó.
Ngồi ngoài bao lơn, tì tay lên lan can, nghe sóng nhỏ vỗ nhẹ vào cột bê tông cắm sâu xuống lòng nước, nghe tiếng nhạc hòa tấu thanh thoát, trong vắt vang khẽ từ chiếc loa thùng bên cạnh, tôi thương tôi và Nam vô cùng.
- Trước bảy lăm, Khoai với mình cùng thi vào sư phạm, vì ngành giáo dục được trốn lính trong sự ưu đãi.– Nam cười khẽ –. Nước mình đa số nhà văn, nhà thơ vốn là nhà giáo kia mà. Thời Tiền chiến, thời Tạm bị chiếm, thời nào cũng thế. Cần gì làm báo nhỉ!
Tôi bật cười khanh khách:
- Ông “ôn tập”, “củng cố” lại những điều mình đã bao lần trút ra cho nhau nghe làm gì! Tôi biết ông sẽ nói thêm, ước mơ có cái thẻ hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hay Hội Văn bút Quốc tế gì đó, để chìa ra nơi cần đến, ăn dầm ở dề, tha hồ phỏng vấn phỏng viếc, hoặc tâm tình, thủ thỉ, dòm ngó, thóc mách, moi ruột moi gan thiên hạ ra mà làm thơ, viết truyện, không lo cơm áo gạo tiền và bó buộc thời gian, cũng chả cần giữ tác phong, nếu cần thiết phải dẹp bỏ tác phong để trải nghiệm … Phải vậy không? Khát vọng làm Thượng đế, phải không?
Nam bật cười tự nãy giờ, về ước mơ vừa chính đáng vừa buồn cười ấy. Đúng là quá bi hài!
Im lặng một lúc lâu, Nam nói:
- Khát vọng, đam mê văn chương, chính nó đã hành hạ bọn mình quá thể, lôi mình đi như mớ giẻ rách. Khát vọng, đam mê nào cũng khổ. Như tình yêu đương! Yêu đương nào cũng khổ …
Sương đêm xuống ướt cả áo khoác, lạnh tê cả tay và chân. Tôi thấy gương mặt Nam, có lẽ mặt tôi cũng thế, tím tái, nhợt nhạt. Câu cuối vừa rồi của Nam khiến tôi nhói lòng.
- Này Khoai, sao hồi đó bọn mình không trải nghiệm đi lính ngụy thử nhỉ. Nếu đã là ngụy, mình sẽ viết “Con đường đau khổ” ở nước mình, chắc hay vạn lần hơn bá tước – đồng chí A-léc-xây Tôn-x-tôi (A. Tolstoi). Mình tin như vậy. Thiếu tá bạch vệ ngụy, Nguyễn Văn Rốt-xin (Rotsin), cũng hay chứ! – Nam pha trò cho bớt rét –.
Tôi cười:
- Kiếm chỗ ngủ, khuya rồi. Mong chiều mai về đến Đa Công. Mới nhận nhiệm sở đã nhờ dạy thay, thật bất tiện.
Trả tiền xong, chúng tôi thả bước dọc theo các luống hoa. Hoa bươm bướm đủ màu, bay bay như đàn bướm dưới ánh đèn trong sương. Hoa cẩm tú cầu tím nhạt, từng khối tròn, như khối chất xám nhiều nếp gấp, nếp xoắn của người khổng lồ, ươn ướt, rưng rưng từng hạt móc lạnh buốt, lóng lánh. Không hiểu sao tôi lại liên tưởng như vậy.
- Trường Bảo Nghĩa cũng dễ thương đấy chứ? – Nam nói bâng quơ –.
Tôi đang nghĩ đến “mồ hôi động não”, nhưng đáp:
- Ừ, toàn dân Miền Nam cả … Sao không có cán bộ chi viện từ nguồn Bắc hở Nam? – Tôi bỗng hỏi Nam –.
- Nghe nói năm học trước có.
- Trường mình chỉ có anh Ruộng là cách mạng chính gốc trước bảy lăm thôi. Anh ấy là du kích đấy.
- Bí thư chi đoàn giáo viên đó.
- Ừ, có nghe Hoán nói.
Chúng tôi lên dốc dẫn tới khách sạn Đà Lạt. Thông hai bên đường vi vu reo trong sương khuya. Khách sạn này cũng ngập ánh đèn. Nhạc từ hiệu cà phê trong đó vọng ra ngoài đường. Tôi nhìn lên nóc nhà thờ Thiên Chúa giáo, chẳng hiểu sao con gà Gô-loa (Gaulois) dám đậu trên đỉnh Thánh giá! Tính dân tộc của người Pháp cao hơn tính tôn giáo chăng.
Tôi mỉm cười với ý nghĩ đó khi cùng Nam rẽ vào cổng Trường Phổ thông trung học Thăng Long.
- Ông có nhớ chiếc xe lam chở nhóm sinh viên Huế bọn mình từ bến xe liên tỉnh lên đây, dừng tại đây không, và người Đà Lạt đầu tiên mình gặp là anh Bát không? – Tôi khẽ níu tay Nam –. Nhà văn Trần Bát ấy.
- Chính anh Bát dẫn bọn mình vào nhà tập thể. – Nam gật đầu –. Anh Trần Bát là nhà văn phản chiến của Miền Nam đó.
- Mấy bạn ở đây chắc giờ này ngủ rồi. – Tôi lại lo chỗ ngủ, sau khi đi thêm một quãng sân ngắn –.
Chúng tôi khẽ bước lên các bậc thang gỗ, sàn gỗ, và gõ nhẹ vào cửa gỗ của nhà tập thể giáo viên. Đèn phòng còn sáng.
Cử mở cửa phòng, mở cửa nhà, ngạc nhiên khi thấy chúng tôi:
- Sao còn ở đây? Mới từ huyện Công lên sao?
Tôi nghe Nam nói tránh đi, có lẽ Nam ngượng về chuyện thư tay gửi gắm (nó có vẻ tình cảm cá nhân!). Có lần Nam ngập ngừng tâm sự với tôi, hơi cay đắng, cay đắng trong ngọt ngào: “Yếu thế, lại có người thương, mình nhân nhượng với tình đời”. Nam chơi chữ, “tình đời” với hai nghĩa. Lúc này, nghe Nam trả lời, tôi mỉm cười.
Sau một tiếng đồng hồ hỏi han đủ thứ chuyện, Cử ôm sách vở qua phòng Hoàng, để chỗ cho chúng tôi nghỉ lại. Hai anh em đắp một chăn. Tôi nghe mỏi ê ẩm trong hơi ấm. Tôi nghĩ về tình trạng đời và tình cảm đời.
- Ông còn ngượng về “tình đời” à?
- Tính mình không muốn mang ơn. Ơn với mình rất nặng. Vả lại, mình cũng không thích sự bất bình đẳng. Được giới thiệu, gửi gắm, nghĩ cho cùng là mình đã được giành quyền ưu tiên so với người khác, như Khoai chẳng hạn. Có ai giới thiệu cho Khoai đâu! Mình ghét sự bất bình đẳng, sao mình lại chấp nhận nó! Thật ra, thầy giáo dạy mình cũng có viết thư như thế, nhưng mình xin thầy đừng. Mình chỉ nhận thư tay giới thiệu của một nhà văn thôi, vì ham làm báo quá … Bây giờ, phân tích cặn kẽ thế, hóa ra vô ơn. Lẽ ra Hội Văn nghệ ngoài đó giới thiệu cho mình thì tốt hơn, không ai bảo nhờ tình cảm cá nhân nữa … Trong văn nghệ không có bình quân nhưng cũng phải bình đẳng …
Tôi hơi tự ái. Tôi cũng thấy số Nam khổ và sẽ còn khổ nữa là phải. Nam muốn cả tình đời, cả lí đời, vừa thuận tình, vừa đạt luật kia. Thư tay giới thiệu, với Nam là ngoài luật! Tôi hiểu vì sao Nam nhạy cảm với sự bất bình đẳng đến thế, dẫu “bất bình đẳng” trong trường hợp này lại có lợi cho Nam! Tôi bực mình thấy Nam tự tạo ra sự khúc mắc trước tình cảm liên tài, ái tài của nhà văn Đan Sử, một tấm lòng son rực sáng, cả tôi lẫn Nam đều yêu mến, kính trọng. Đời nó thế, nhà văn ấy phải thế, chỉ vì thương Nam và quý tài năng. Quý tài năng, không sợ trách nhiệm, là cũng vì cái chung rồi. Tôi bực mình thực sự, im lặng, ngồi dậy châm lửa hút thuốc. Có lẽ Nam hơi hợm mình cho đỡ ngượng?
- Sao ông không nói gì cả? – Nam hỏi –.
- Nam vừa sai vừa đúng, vừa đáng ghét vừa đáng thương hại. – Tôi nhấn mạnh hai chữ “thương hại” cho bõ giận –.
Tôi không nói nữa. Tôi biết, Nam đã hiểu tôi nghĩ những gì. Nam có vẻ hối hận. Nam muốn tế nhị, hóa ra không tế nhị chăng?
- Ông lí tưởng hóa mọi sự, luật pháp hóa mọi sự! – Tôi chỉ nói thêm vậy, tuy thật lòng muốn hét vào tai Nam –. Đời nó thế, nhà văn ấy phải thế, chỉ vì thương Nam và quý tài năng. Quý tài năng, không sợ trách nhiệm, là cũng vì cái chung rồi. Nam, mày là thằng ngốc, mày khó sống là đáng đời! – Tôi im bặt –.
Tôi nghe Nam thở dài. Tôi mở cửa kính cho khói thuốc tản bớt. Thông reo vi vút đưới triền đồi. Gió tạt vào mặt tôi lạnh buốt. Có lẽ bản chất cuộc đời vốn buồn nên đời vốn thế? Thằng ngốc cứ muốn đời vui hơn kia! Vui hơn, có thể, nhưng còn lâu lắm!
Đóng cửa sổ lại, tôi nghe mình dịu đi. Nằm xuống cạnh Nam, tôi cứ thao thức. Tôi biết Nam cũng chưa ngủ được.

6

Hừng đông, trời còn bảng lảng sương mù và lạnh buốt. Đà Lạt thường có vẻ bề ngoài của một người nhàn hạ hơi lười biếng. Cửa nhà luôn đóng kín, ánh ngày được lọc qua các khung kính ngay cả những hôm âm u, nhợt nhạt như sáng nay. Đà Lạt đi ngủ sớm lại thức dậy muộn, tất nhiên chỉ là vẻ bề ngoài.
Ngồi quây tròn ở quán nhỏ đầu đường Nhà Chung, năm chúng tôi uống cà phê. Tôi kiểm nghiệm lại nhận xét hôm nào về cô giáo Tơ Thu, bạn cùng khóa của Hoàng và Cử. Trong chiếc áo khoác có cổ lót lông cừu, Tơ Thu vẫn co người vì lạnh, cái lạnh hồng! Khác cánh con trai, đàn ông, các cháu bé và con gái ở đây, trời càng lạnh, lại càng hồng xinh đôi má. Không, đỏ au, như đánh phấn hồng, gợi lên hình ảnh tiên đồng hay thiên thần trong tranh vẽ. Đó là sức sống Đà Lạt, chất bồng lai, tiên giới của nơi này? Và những thiên thần, tiên đồng da nâu nữa, ửng lên màu bồ quân rất duyên! Ờ, có thể lắm, ý niệm thiên đường, thượng giới của loài người khởi từ độ cao, nơi đất như lẫn vào mây trời, từ những đôi má trắng hồng, nâu mận chín chăng. Riêng lúc này, trước Tơ Thu, cảm xúc tôi lệch mất! Tôi không lắng nghe tiếng nói, tiếng cười có vẻ thú vị trong cuộc chuyện trò, cứ đẩy xa ý tưởng của mình, nhìn da tay cô sinh viên Huế đã phơn phớt xanh lông măng rất gợi cảm. Tôi bật cười trong lòng với gương mặt thờ ơ, lơ đãng của tôi khi nghĩ về chất nông dân nơi mình. Bao sợi lông măng xanh phớt trông mơn mởn gợi cho tôi vẻ tươi tốt, non tơ trên đất phong nhiêu, theo một nếp chủ quan trong cảm nhận! Không thể có sự đột biến nhanh về tơ tóc như thế được. Nhưng, với thơ, cần gì khoa học thực nghiệm? Tơ Thu trong mắt tôi như một biểu tượng hơn là một con người cụ thể, có thật, đang mỉm cười nghe Nam nói. Tôi đâm ra mơ màng, theo cảm xúc thơ ca chưa được tinh lọc.
Chia tay với các bạn Thăng Long, tôi và Nam đi về phía Ty Văn hóa. Trên đường, học sinh đã đến trường, bao người ra khỏi nhà bắt đầu một ngày. Tôi nghĩ, thây kệ Nam với thư giới thiệu, với các vị có thẩm quyền. Tôi quên đi các công thức, định lí, hệ luận toán học, nghe những ngôn từ run lên, chói sáng hiện ra trong rung cảm. Bất giác tôi ứa nước mắt trong niềm sáng tạo đầy hứng khởi. Tôi không rõ Lộc Biếc, Tơ Thu và bao đứa bé Đà Lạt, cùng những ai đó nữa, có thể chỉ gặp một bận, thoang thoáng tình cờ, tại sao lại hòa nhập thành một biểu tượng, biểu tượng ấy đang chiếm lĩnh lấy tôi. Tôi như một kẻ nhập đồng, với vẻ thư thả, về Phố Trời!
Nam bỏ tôi ngoài cổng Ty Văn hóa, vào hỏi nhà thơ có nước da xanh xao vốn rất quen với tôi ngoài Huế. Nhà văn Đan Sử ngoài cái thư gửi đến cơ quan báo ở đây, còn có một cái khác gửi cho nhà thơ tập kết rồi vào Trị – Thiên chiến đấu trước bảy lăm này. Gặp anh Thứ chắc cũng vui đây.– Tôi nghĩ –.
Nam nhanh chóng bước ra, nói với tôi:
- Anh Cao Hồng Thứ còn đi thu mua lương thực!
Tôi cảm thấy hơi tiếc. Hai chúng tôi lại bước trên những con đường dốc. Hai bên đường, là các biệt thự đầy hoa chung quanh, là thông xanh, dường như càng rét lạnh càng xanh ngắt. Đi khá xa, dễ chừng suốt mấy cây số, chúng tôi vẫn không nói gì. Tôi chỉ hồi tưởng những kỉ niệm với anh Thứ thời ở Huế.
- Đi thế này là giáp mặt hiện thực cuộc sống đấy chứ, sao Khoai có vẻ lãnh đạm thế. – Nam động viên tôi –.
Tôi bỏ dở tứ thơ hồi nãy từ lâu rồi, để thu vào mắt bao hình ảnh khác, chợt nghe Nam nói, tôi cười cho Nam bớt áy náy:
- Cảm ơn Nam đã cho mình đi thực tế một chuyến thế này. Cũng vui, thích quá đi chứ! Nhưng làm sao làm thơ về thủ tục hành chính, tổ chức! Cái đó là chất của truyện.
Nam cười to:
- Ông nhầm. Để làm thơ hay về một đóa hoa, một tiếng chim hót, ông phải hiểu cả ba ngàn thế giới, tầm mắt phải trải ít ra là một ngàn chín trăm bảy mươi tám năm, phải xuyên suốt ít ra là bốn tỉ rưỡi thiên hạ hiện tại.
Tôi cáu:
- Nói chuyện với Nam chỉ muốn nói bằng nắm đấm! Bổ sung thêm ý tưởng của Mộng Liên Đường, Cao Bá Quát có nói, đại để như thế, núi sông nghìn cõi trong bụng, sách vở vạn cuốn trong mắt. – Tôi gỡ gạc –.
Nam đứng lại, bắt tay tôi:
- Ông đúng là số một. Nhất Đỗ Khoai!
Tôi cười, khôi hài hơi dung tục:
- Đỗ và Khoai chỉ là thứ chót và dưới chót của ngũ cốc, – Tôi tiếp –, trên bo bo, lọai hạt “bọc nhựa”, đầu ra, đầu vào y chang. Hết bồng lai, giang hồ với cuồng sĩ, xin phàm tục một chút!
Nam bỗng thở dài:
- Khoai cứ hạ Khoai như thế, làm mình ngượng.
Đằng trước là cơ quan báo Li Ang Di.
Người tiếp chúng tôi là một nhà thơ. Anh ấy ăn mặc có vẻ khá lịch sự. Áo sơ mi trắng muốt, bên ngoài là bơ lu dông màu đen, quần ủi phẳng, nếp li rất sắc, giày da bóng lộn. Tôi không ngờ nhà thơ ấy mới từ Trường Sơn về phố trong hơn ba năm nay. Tôi ngồi cạnh Nam trước bàn nước, chợt nhìn xuống đôi dép gọt ra từ lốp xe, hai quai chéo là dải đeo vai của túi mìn cơ lây mo dưới chân tôi.
- Thưa anh, hôm trước đến trao lá thư của anh Đan Sử, nhưng chưa được gặp anh. – Nam nói –.
- Tôi cũng được anh Lê Phạn đưa đọc. – Nhà thơ Đỗ Từ chợt đăm chiêu –. Uống nước đi, kẻo nguội mất.
- Cám ơn anh. – Nam nhắc tôi uống trà –.
Tính Nam bao giờ cũng vậy, trong công việc cứ thích đi ngay vào vấn đề, không vòng vo:
- Em đi dạy học, có điều, nói theo anh Đan Sử, làm báo tốt hơn. Nếu được hay không, anh cứ nói thẳng.
Anh Đỗ Từ cười:
- Cái háo hức với nghiệp viết tôi cũng đã từng. Song tôi có quyền gì đâu. Tôi quá sai lầm khi về Đà Lạt này.
Nam lẫn tôi đều giật mình.
- Nói thật nhé, – Anh Đỗ Từ tiếp –, tôi đang làm hồ sơ, xin chào chốn núi rừng này để về biển hay đồng bằng. Đà Lạt lúc này không phải là đất thơ ca … Nếu cậu muốn về làm báo để làm thơ, (hoặc làm ở đài cũng được), cậu phải gặp ông Võ Phả. Và còn nhiều “cửa ải”. Khá mệt đấy. Anh Lê Phạn cũng tùy thuộc thôi …– Bớt nâu sậm ở gò má anh giật giật –.
- Em biết. Thật ra em không có ý định đi vào các “cửa ải”. Nhưng được anh Đan Sử quý mến, nên cũng thử …– Nam bỏ lửng câu nói, rồi tiếp –. Em chẳng dám có ý định …
- Ông ấy đang ở bên Đài, cậu nên gặp ông ấy. Anh Lê Phạn có trình bày vấn đề với ông Võ Phả rồi.
Chúng tôi bắt tay anh Đỗ Từ, một bàn tay khá mảnh khảnh, và lại theo đường cũ trở về.
Nắng đã lên, chấp chóa trên những ngọn thông. Phía trên kia, xa xa sau đồi Cù trời đang bay mưa. Tôi thấy nắng từng vạt như đang trôi từ ngọn đồi này sang thung lũng nọ. Nam cúi đầu nhìn bao sợi lá thông khô đã ngả nâu trên mặt đường. Tôi đoán Nam đã nản. Nam tự tin ở chuyện thơ, chuyện kí, còn “cửa ải”, tôi thừa biết Nam “ngấm” từ trong lớp, dưới mái trường đại học, từ người yêu của Nam, cô gái có cái tên của dòng sông lặng lờ, bình thản nhất nước, Sông Hương, cô nữ sinh Trưng Trắc đỗ vào đại học với điểm số cao, nhưng đành phải ngày ngày cắm cúi với kim chỉ, cần mẫn trong phiền muộn, chua chát.
- Cứ lao vào thực tế “cửa ải” một lần này nữa rồi thôi, Khoai ạ.
- Tùy. Được cái thực tế xót cay làm quái gì.
- Khoai cứ nói vậy! Đừng sợ thực tế.
- Sợ mỏi chân, sợ vô ích, dẫu mỏi chân và vô ích cũng là thực tế cuộc đời.– Tôi nói luôn để đùa Nam –. Ông nên tiếp tục ước mơ có cái thẻ hội viên Hội Văn bút Quốc tế để thâm nhập thực tế ở đâu đó ngoài đất nước mình.
- Ừ, Hội ấy chỉ có giá trị ở các nước tư bản. Tuy nhiên, nghe đâu tại các nước tư bản, Hội với Hiếc chả là cái quái gì cả. Thực tế ở Miền Nam trước bảy lăm đấy. – Nam nói –. Mình chỉ ước mơ tầm phào cho vui. Đó chỉ là mộng mơ vớ vẩn. Chưa bao giờ mình có ý định vượt biên. – Nam ngẫm nghĩ, lại nói –. Dẹp mọi mộng mơ tầm phơ tầm phào. – Chợt Nam nhấn mạnh –. Cái chính là có tác phẩm, tác phẩm cực hay. Chưa viết được bây giờ, sau này hẵng viết. Được sống tại Tổ quốc mình trong thời kì quá độ này là cực kì may mắn. Nhiều người cầm bút không hiểu họ may mắn. Chất liệu vốn tự nó là đã rất tiểu thuyết, chả cần hư cấu gì thêm. Nhà văn là chứng nhân mà!
- Độc ác! Nam muốn nhìn rõ cuộc sống nhân dân xung đột khốc liệt để Nam viết tiểu thuyết ư? – Tôi đùa –.
- Đúng là hiện thực ấm êm, bình lặng, hạnh phúc quá, như thiên đàng, tiên cảnh, chẳng có gì cho bọn mình viết cả, mặc dầu mục đích của người cầm bút là vì sự ấm no, hạnh phúc, cả tự do … Hơn nữa, ông thấy, mình không hề có khuynh hướng tiên thiên bất hạnh. Bọn mình khao khát sự thăng hoa, vươn lên, thành đạt, cả vĩnh cửu nữa kia. Đỗ Khoai và Nguyễn Trần Nam bất diệt, bất tử bằng lao động nghệ thuật! Hai nhân cách và tài năng vĩ đại! Chúng ta vào đời từ mức dưới “âm độ”. – Nam đùa với giọng điệu khẩu hiệu, hình như anh tuôn ra từ nỗi trăn trở lâu ngày hơn là nói, cơ hồ viết văn bằng miệng, thứ văn hoạt kê đau xót –.
Tôi bật cười:
- Từ âm phủ lên thiên đàng, thiên đàng cũng chỉ là âm phủ! Ừ, mà thôi, ghé vào đây mua điếu thuốc thơm đã.
Ghé vào quán nhỏ, sau hai phút, chúng tôi thả khói Sa-mít (Samit) thơm lừng theo gió. Nắng lành lạnh, với tôi rất thú. Khi chẳng có gì hi vọng, cũng chẳng có gì để buồn. Còn Nam, tôi biết Nam nói thế nhưng Nam buồn lắm. Nam lấy con người làm văn nghệ của chính Nam để bỡn cợt với con người bình thường cũng của chính Nam. Nỗi đau của kẻ bị từ chối!
Đài Phát thanh Li Ang Di ở gần hồ Xuân Hương. Chúng tôi hỏi một vài người mới biết chỗ ông Võ Phả làm việc. Đó là một ngôi nhà ở lưng chừng đồi, bên ngoài có trạm gác. Anh công an trẻ tuổi nhìn chúng tôi, gật đầu, bảo hãy chờ dăm phút. Không biết chiếc kính cận với dáng người cao gầy nom rất trí thức của Nam khiến anh ta cảm tình chăng. Anh công an mỉm cười, hướng dẫn hai chúng tôi vào, sau khi điện thoại xin ý kiến ông Võ Phả.
Hơi ngài ngại, Nam gõ cửa:
- Cứ vào. – Một giọng trầm xứ Huế –.
Nam đẩy cửa vào, tôi vào theo. Ông phó bí thư Tỉnh ủy kiêm phụ trách Tuyên giáo đứng dậy, chìa tay. Chúng tôi bắt tay ông. Tôi thấy mình hơi run. Ông Võ Phả, dáng người tầm thước, da nâu, có một chiếc răng bịt vàng, nụ cười cởi mở nhưng đôi mắt nghiêm nghị. Ông chỉ chỗ cho chúng tôi ngồi, đó là hai chiếc ghế trước bàn giấy, nơi ông đang làm việc. Tôi giấu sự bối rối bằng cách nhìn ra khung cửa sổ gắn kính thủy tinh. Trời vẫn nắng, gần trưa rồi.
- Anh Lê Phạn có nói với tôi việc này. Trong hai anh, ai là Nguyễn Trần Nam? – Ông Võ Phả lại cười, hỏi –.
Nam hơi mừng khi thấy sự quan tâm về lá thư giới thiệu:
- Thưa chú, cháu là Nguyễn Trần Nam.
- Tôi đã nhắn lại với anh Lê Phạn, anh cứ yên tâm đi dạy học, bởi còn phải xem sao đã, phải làm việc với nhiều nơi mới có thể quyết định. Anh dạy ở trường nào?
Nghe Nam trả lời, ông hơi cau mày. Một lúc, ông nói:
- Bây giờ, anh đến bàn nước viết thật ngắn gọn sơ yếu lí lịch. – Ông đưa giấy bút cho Nam –.
Nam nói khẽ lời cảm ơn.
Ngồi đối diện với Nam, tôi thấy Nam viết hết một mặt giấy, theo cảm quan của người viết tiểu thuyết! Thật buồn cười, anh cố phức tạp hóa để lí lịch có nhiều tuyến nhân vật, nhiều tình huống. Nam cố ý giảm bớt phần có liên quan với cách mạng, làm rõ thêm kịch tính phía dính líu với ngụy, tuy cơ bản là đúng. Tôi biết Nam không có gì đùa nghịch ở đây. Rất thành tâm, Nam muốn anh phải là người đi lên bằng chính tài năng, nhận thức của chính anh: bước tới chân lí và hiện thực cách mạng với gánh nợ của cha anh, gông cùm của định kiến, “chủ nghĩa lí lịch”, rồi anh sẽ trả hết nợ, thứ nợ anh không vay, rồi gông cùm sẽ rơi rụng, bằng sự tỏa sáng của chính anh. Xuất thân như thế, được như vậy mới đẹp! Thành tâm của lòng tự trọng, tự tin, của cảm quan tiểu thuyết bi kịch có kết thúc lạc quan, chói sáng! Tôi định can Nam nhưng không kịp, khi anh viết thêm dưới lí lịch: Gor-ki (Gorki), A. Tôn-x-tôi (A. Tolstoi), Nguyễn Du, Phạm Tuyên … và cả Ăng-ghen (Engels) nữa! Anh tự tin đem đến bàn giấy ông Võ Phả!
Ông phó bí thư Tỉnh ủy mỉm cười:
- Được. Anh để đấy, tôi nghiên cứu, sẽ trả lời sau. Anh chờ nhé.
Nghe vậy, Nam định cáo từ. Ông nói:
- Nói thật, còn cách hành văn nữa. Con cái tôi có đứa học văn đấy, nhưng văn phạm quá yếu. Lớp trẻ bây giờ … – Ông lắc đầu –.
Nam lắng nghe, hơi nóng người. Thấy ông không nói hết câu, ngừng lại, Nam chờ, nhưng không nghe ông nói gì thêm.
- Thưa chú, nhà văn Đan Sử đã giới thiệu. Chẳng lẽ …
Ông gật đầu. Nam đợi ông đề nghị cho ông xem thơ, hỏi đăng báo nào, được nhận xét, giới thiệu trên báo ra sao, kí sự viết thế nào, song ông chẳng nói gì nữa, cũng chả xem dòng lí lịch nào cả.
Nam và tôi xin chào ông để ra về.
Dọc đường về, Nam có vẻ buồn. Nam nói nghèn nghẹn:
- Ra bến xe luôn. Còn chuyến xe chiều. Có lẽ tối nay sẽ phải đạp xe từ Đa Công và Bảo Nghĩa.
Tôi không biết nói gì với Nam, chỉ im lặng.
- Thật ra tài văn chương mình đã đến đâu! – Giọng Nam nghe tức tưởi –.
Có lẽ Nam đã tự thú nhận anh chả là gì cả ở chốn làng văn, làng báo. Anh lại nói:
- Đang ở khởi điểm của nghiệp viết! Chỉ mong có điều kiện. Làm sao để đi nhiều, biết nhiều để có tầm nhìn, tầm nghĩ? Con cóc cứ ở trong hang, nhảy ra, nhảy vào thì cóc vẫn cóc!
Tôi buồn khi thấy Nam tự châm biếm. Nam Lại nói:
- Bảo Nghĩa là cái hang sao? Đó là một hiện thực hay, có thể cô đặc lại, ít ra, vài trăm trang tiểu thuyết, mươi bài thơ. Có điều, phải biết rộng, nghĩ sâu đã rồi viết. Đến bao giờ …
- Mình thấy sau tài năng, còn phải có tâm thế tốt … Tâm thế này chỉ có thể viết về nỗi đau đời, bất mãn. – Tôi bật cười, chua xót –. Đau đời, bất mãn lại có thể bị tù, lại càng đau đời nặng hơn, bất mãn nặng hơn. Luẩn quẩn. Lại càng luẩn quẩn.
- con kiến mà leo cành đa
leo phải cành cụt leo ra leo vào
con kiến mà leo cành đào
leo phải cành cụt leo vào leo ra! (6)

– Nam tự mỉa mai –.
Tôi cười ngặt nghẽo vời Nam. Bến xe nội tỉnh, nơi tôi, Lộc Biếc, Nam, Huyện sớm hôm nọ từ đây về huyện Công, nơi chúng tôi chia tay Khúc Văn, đã trước mặt.
Ngồi ăn cơm dĩa, chờ giờ quầy vé mở cửa, tôi ngước mắt tìm những cụm hoa diếp dại nở vàng trên vách đá. Bỗng dưng, tôi nhớ Lộc Biếc biết bao.
- Đau đời, bất mãn làm cóc gì! – Nam cười buồn –. Phải bản lĩnh. Tự lực cánh sinh là chính. Hãy làm thơ cho nhân dân mình, Đất nước mình. Thế thôi. “Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ” (7), Nguyễn Du viết vậy. Tất nhiên nỗi đau mình khác cụ Nguyễn. Nỗi đau của kẻ bị từ chối, chứ không phải nỗi đau do ý hệ trung quân Nho giáo lạc hậu và do “sự rạn vỡ của ý hệ” ấy!
Lần thứ ba tôi nghe Nam nói điều này, từ những năm còn học đại học. Tôi im lặng ngước nhìn những cụm hoa diếp dại. Tôi nhớ Lộc Biếc biết bao. Tôi mỉm cười, rùng mình trong niềm cảm xúc về vẻ đẹp của những sợi lông măng phơn phớt xanh trên lưng bàn tay với những ngón tay tuyệt vời, thon tròn, trắng hồng của Tơ Thu. Tôi lạ cho tôi quá đỗi! Tôi là gã con trai đa tình sao? Không. Tôi không tin như vậy. Tôi sẵn sàng chịu cảm giác xấu hổ, vì tội lỗi (dù chỉ trong tâm tưởng), sẵn sàng ăn năn, sám hối với chính mình. Không. Tôi không ngụy biện cho chính tôi. Tơ Thu chỉ gợi cho tôi một vẻ đẹp mong manh của thứ tình cảm nhẹ như tơ trời, thoáng đến thoáng đi. Tơ Thu còn là vẻ đẹp mảnh mai rất Huế đã mọng tròn sức sống Đà Lạt ôn đới. Có lẽ chính xác hơn, như ý tưởng hồi sáng sớm tôi đã trực nhận, Tơ Thu là biểu tượng, Tơ Thu là nghệ phẩm, trong cảm xúc thẩm mĩ chủ quan riêng tôi. Chỉ Lộc Biếc, chỉ Lộc Biếc thôi, sau hai mối tình thầm kín của tuổi mười bảy và mười chín! Chỉ Lộc Biếc thôi, trong tình yêu tuy đơn phương vẫn đích thực! Tôi hoảng hốt đến đau xót khi cảm thấy rằng đó là tình yêu đương duy nhất và cuối cùng.
Tôi miên man suy tưởng, mắt nhìn mấy cụm hoa diếp dại nhưng thật ra đang nhìn vào đáy trái tim mình. Nam ngồi buồn rầu, đôi mắt sau làn kính cận trở nên đờ đẫn như người sắp ốm. Tôi hỏi Nam có được khỏe không, Nam bảo hơi ớn lạnh, có lẽ do trời rét, nắng hanh. Tôi giật mình, hỏi bà chủ quán, bà chỉ vào một góc phố. Tôi đi mua giúp Nam mấy loại thuốc cảm, xuyên tâm liên và hai loại gì đó được in bên ngoài bằng loại chữ A-ra-b (Arab).
Uống xong, Nam nói như thể nãy giờ anh chưa tự cắt đứt dòng suy nghĩ từ nơi làm việc của ông Võ Phả đến đây:
- Mình thấy ông Phả hơi thiếu tế nhị với tâm lí người già, cứ nghĩ thế hệ của ông ấy là nhất. Thật ra hồi Pháp thuộc có mấy người đi học! Thi cử sàng lọc, đói nghèo sàng lọc, chính sách ngu dân sàng lọc. Pháp chỉ đào tạo tay sai cho chúng trên sự sàng lọc, bỏ quên đại đa số ấy. Phân tích tiếng Việt theo văn phạm tiếng Pháp! Ông ấy cũng chẳng phải nhà thơ, nhà báo gì cả, chỉ là nhà chính trị, thấy con ông ta dốt rồi từ đó thấy bọn mình đều dốt! Mấy ông già đều thế, kể cả ba mình. – Nam càu nhàu –. Họ đâu chấp nhận kiểu chấm câu tu từ! Kiểu chấm câu tu từ là bậc thầy của kiểu chấm câu chuẩn!
Tôi thông cảm với Nam. Nam tự ái là phải. Trường đại học có mấy người như Nam đâu, tôi biết, nhưng không nên khen Nam nữa. Có thể ông Võ Phả thấy Nam quá tự tin nên đã cho Nam một liều thuốc đắng chữa bệnh tự mãn? Tôi nói điều này với Nam. Nam cau mặt, gật đầu, cơ hồ sợ vỡ đi một ảo vọng về cuộc đời!
Tôi vào quầy vé đứng xếp hàng với hai tờ công lệnh trên tay. Lúc này, quầy chưa có người bán, song giữa các lan can kiểu xà kép dựng ngay giữa nền nhà, trước các ô cửa nhỏ chỉ lọt một bàn tay, để hành khách khỏi chen lấn, giành chỗ nhau, đã có nhiều người. Tôi là người thứ chín.
Lúc ô cửa của quầy vé, bên trên có để hai chữ Đa Công, bắt đầu có bàn tay đầu tiên đưa tiền với giấy tờ hoặc chứng minh thư gì đấy vào, hành khách bỗng nhốn nháo hẳn lên. Giờ bán vé xe đã bắt đầu. Hàng cán bộ, được bán trước. Giáo viên cũng thuộc hàng này. Một cụ già đứng bên hàng nhân dân nổi cáu, rủa khẽ:
- Đúng là xếp hàng cả ngày! Việc Nhà nước là nhất, việc cá nhân là rác cả! Từ sớm tinh mơ đến giờ vẫn chưa mua nổi cái vé!
Tôi im lặng, không biết nói gì. Tôi đang hồi hộp vì hai tờ công lệnh của tôi chưa có dấu đỏ nơi đến. Tôi thở phào cảm ơn sự may mắn, khi chỉ liếc qua mấy dấu đỏ tự bao giờ, dòng chữ ghi ngày đến, ngày đi đã quá xa, cô nhân viên bán vé đã thu tiền, xé vé đặt vào tay tôi.
Thế là không trung thực rồi, có điều Nam và tôi biết làm sao được!
Xe rời bến lúc khoảng một giờ trưa. Trời Đà Lạt lúc này thoáng rải đôi làn mưa lại thoắt nắng, nắng vàng tươi, rồi thoảng dăm làn mưa trong khoảnh khắc âm u. Bốn mùa trong một giấc ban trưa.
Chúng tôi lim dim mệt mỏi. Khi xe chạy qua Trường Phổ thông trung học Nơ Trang Long, tôi thấy Khúc Văn với ai đó đang từ sân trường bước ra cổng. Tôi chỉ kịp vẫy tay, không biết Khúc Văn có thấy không. Tôi lại nhắm mắt để nghỉ ngơi đôi chút. Mệt rã rời, nhất là khắp đôi chân!
Xe tránh một vạt bắp đang phơi trên mặt đường nhựa, cả chiếc xe du lịch ngược chiều, khiến tôi mở mắt. Tôi chợt thấy người đàn ông trung niên đang đọc Rơ-mác (E. M. Remarque) bằng bản dịch cũ ở Miền Nam. Rơ-mác là nhà văn viết về lính Đức thời hai cuộc thế chiến và hậu chiến.
Thời hậu chiến ở đâu cũng khổ. Tôi nhủ thầm, mình chưa đến nỗi gánh tiền lạm phát đi hớt tóc như ở một số nước châu Âu thời đó.
Có lẽ đã mỏi mắt vì xe rung khiến cuốn sách cứ rung theo, người đàn ông gạ chuyện cho quên đường dài:
- Anh đi dạy học ở Công? – Một giọng Bắc khá nặng –.
- Vâng. – Tôi đáp –.
- Trước tôi cũng đi dạy học. Các thầy giáo bây giờ cơ cực quá. – Người ấy nói bằng ngữ điệu tự thán, cảm thông –.
- Vâng. Mọi người chứ, có riêng gì giáo viên.
- Miền Nam ngày trước mức sống rất chênh lệch, giàu sụ và nghèo rớt mồng tơi. Giáo viên ở mức giữa, hơi dưới giữa. Nhưng trung bình cộng vẫn hơn Miền Bắc trung bình cộng. Đại đa số dân quê Miền Nam vẫn khá hơn …
Tôi thấy mệt quá, còn Nam thật sự hơi cảm lạnh rồi. Tôi ngồi rướn tới che gió cho Nam. Ngẫm nghĩ một lúc, tôi thấy cứ nói chuyện với người đàn ông này. Cuộc sống vốn vậy, hơi đâu mũ ni che tai. Làm thơ, đừng sợ cuộc sống cơ mà! Nhưng ông không nói gì nữa, tiếp tục đọc sách. Trang sách nhảy múa trên hai tay kê trên đùi ông. Tôi định bụng sẽ nói: “Phải cộng thêm vào hai trung bình cộng ấy một bên là chính nghĩa với khát vọng tương lai, một bên là ngụy, thực dân, đế quốc với nỗi đau quá khứ”. Nhớ mẫu chuyện của Lộc Biếc, Huyện và Nam trên xe về Công hôm nào …
Tôi gục đầu vào hai cánh tay đang vươn ra vịn vào lưng ghế phía trước. Tôi nhớ Lộc Biếc vô ngần. Nhớ muốn khóc.
Tôi thiếp đi trong tâm trạng ray rứt, yêu thương. Bỗng chiếc xe xóc mạnh, có lẽ do một ổ gà. Tôi suýt va vào người khách bên cạnh. Cuốn sách nằm hờ hững nãy giờ trên tay ông rơi xuống sàn xe. Tôi khẽ xin lỗi trong khi cúi xuống nhặt. Người đàn ông trung niên biết không phải tại tôi, ông nói liền hai lần hai chữ “cảm ơn”.
- Có lẽ anh mệt vì đi đường xa?
- Không. Cảm ơn. – Tôi đáp –. Không phải vì đường xa hay khí hậu đâu. Đã khỏe lại rồi.
Nhìn qua, tôi thấy Nam lim dim mắt như đang ngủ. Tôi đặt tay lên trán Nam, trán cũng không nóng lắm. Nam mỉm cười mệt mỏi.
- Anh có thích Rơ-mác này không? – Bàn tay người đồng hành nâng cuốn sách lên –.
- Ông ấy viết rất phản chiến, – Tôi đáp –, về những người tuổi trẻ Đức trong guồng máy vô nhân đạo, điên rồ, ngu muội nhất trong lịch sử loài người. Như Khơ-me Đỏ.
Người đàn ông sáng lên đôi mắt hơi đượm buồn:
- Bọn lính ngụy chúng tôi cũng thế. Tôi bị bắt lính và đã đào ngũ. Tuy ngụy là ngụy … nhưng chưa đến nỗi như phát xít!
Tôi giật mình. Thấy cũng hay, tôi nói:
- Những tên phát xít mang gương mặt Con Người. Tôi tin mọi người nói chung là tốt, chỉ thiểu số không tốt. Bi kịch ở chỗ số không nhiều ấy lại nắm được quyền lực, lại tạo được phe trục … Anh có nghĩ các nhân vật chính của Rơ-mác là điển hình cho một bộ phận lính phát xít Đức có lương tri không? Chỉ một bộ phận …– Tôi lặp lại mấy chữ –.
- Có những tên phát xít cực kì hung ác. Lịch sử đã làm rõ điều đó. Chúng bị kích động, bị nhồi sọ, hay bản chất hung ác vốn tiềm ẩn, gặp điều kiện để bộc lộ. Ở đâu, thời nào cũng có kẻ hung ác tự bản chất như vậy. – Người đàn ông ấy nói –. Nhưng chúng tôi không phải phát xít!
- Anh có thích “Chinh phụ ngâm” của mình không? Đó là một khúc ngâm phản chiến, – Tôi nói –, dù được viết dưới nhãn quan phong kiến. “Chinh phụ ngâm” rất đẹp về ngôn từ, rất lớn ở chỗ đã lên án chiến tranh phi nghĩa do triều đình tiến hành để trấn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân, hay lên án chiến tranh phi nghĩa của các tập đoàn phong kiến, Trịnh và Nguyễn. Khát vọng hạnh phúc, hòa bình lớn biết chừng nào! – Rõ ràng tôi đã bị Rơ-mác lôi vào câu chuyện –.
- Rơ-mác, Đặng Trần Côn là các nhà nhân bản, kể cả Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Ích. – Người đàn ông trung niên nói –. Anh, anh biết không, tôi chỉ ao ước cán bộ cách mạng hiểu chúng tôi như hiểu các nhân vật mà Rơ-mác đã yêu thương đến xót xa, trút hết tâm lực vào đó. … Như hiểu người lính Đức trong truyện “Mặt trận phía tây vẫn yên tĩnh”! … Như hiểu đôi tình nhân yêu nhau trong “Một thời để yêu, một thời để chết”, dưới bom đạn giữa một thành phố hoang tàn! Đa số chúng tôi là vậy. Xin hiểu cho …
Tôi thấy người đàn ông này cũng hay. Tôi đợi ông nói thêm điều gì nữa, song chỉ có sự im lặng. Cơ chừng ông hơi ngượng khi trót bộc bạch nỗi ao ước hơi tội nghiệp của những nạn nhân, mà ông ta là một trong số đó.
- Tôi thấy hình như anh là nhà văn. – Tôi nhìn ông ta, bày tỏ niềm thân thiện –. Anh hãy viết. Tôi tin người lính ngụy Miền Nam sẽ có tiếng nói của họ sau khi thức tỉnh.
Người đàn ông lắc đầu:
- Không. Tôi chưa hề viết văn. Điều đó vượt quá sức tôi. Tôi chỉ là người đọc. Trước đây, là giáo viên (bấy giờ được gọi là giáo sư trung học đệ nhị cấp), rồi là lính đào ngũ.
Bây giờ, tôi mới để ý, thấy đôi tay sần chai của ông ta đang như thể bấu vào cuốn sách, với một niềm xúc động mãnh liệt đang kìm nén. Tôi không biết nói gì nữa.
Tôi gục đầu xuống đôi cánh tay vươn ra vịn vào lưng ghế phía trước. Tối nay, tôi và Nam còn phải đạp xe vào Bảo Nghĩa. Mong trời đừng mưa. Dường như tôi ứa nước mắt. Tôi lại nghĩ, Rơ-mác, dẫu sao, cũng đã góp phần phản chiến ở Miền Nam này. Nhưng thôi, quên đi. Mong trời đừng mưa đêm nay.

7

Trời chưa tối, các em học sinh đã tề tựu ở sân trường. Từ lớp một đến lớp chín, mỗi em một thanh củi mang từ nhà đến, chất thành mấy đống ngổn ngang.
Nam chỉ bị cảm nhẹ, đêm trước từ Đa Công vào, anh ngủ say, hôm sau lại lên lớp bình thường. Bây giờ Nam đang cùng Huyện hướng dẫn các em sắp xếp củi lại: cứ hai thanh ngang rồi lại hai thanh dọc chồng lên. Ba chồng củi như vậy nằm giữa sân trường. Một sợi dây thép thường dùng để buộc được căng từ cột cờ, dưới lá cờ đỏ sao vàng, dưới lá cờ thi đua của Liên chi đội Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh trường Bảo Nghĩa, đến một cọc nhỏ đóng giữa bao đống củi. Trên lưng chừng dây thép, một lon sữa bò rỗng, đục lỗ hai đầu cho dây thép xuyên qua. Lon sữa rỗng được vấn vải tẩm dầu. Lon ấy được buộc bằng một sợi cước nối với cột cờ. Một dải vải khác được tẩm dầu thả xuống đất, cũng từ lon ấy.
Mười lăm giáo viên, nhân viên và gần hai trăm rưỡi học sinh kết lại quanh đống củi. Cô Lụa bắt nhịp cho mọi người cất lên tiếng hát, tiếng hát của hai vòng tròn đồng tâm.
Vầng trăng mười lăm nhô lên sáng ngời. Trăng Trung thu. Lộc Biếc chưa bao giờ thấy một vầng trăng đẹp như vậy. Sáng ngời. Nền trời hôm nay lại trong vắt. Cao xanh vời vợi. Hai mươi hai tuổi ở thành phố Sài Gòn, làm sao cô biết trăng cao nguyên đẹp thế nào. Lộc Biếc ngẩng mặt ngẩn ngơ ngắm. Tâm hồn cô không còn tù túng, đang trải ra với bát ngát lũng đồi mờ mờ sương nhạt, với ánh trăng muôn trùng, thênh thang. Ngay cả Khoai cũng thế. Lớn lên ở một làng ven rú cát, lại gần ven biển, Khoai cũng chưa hề thấy trăng với nền trời có vẻ đẹp sáng và trong như vậy. Khoai ngẩng mặt lặng lẽ chiêm ngưỡng. Trước vầng trăng này, Khoai muốn xóa đi cái tôi của anh.
Anh Giảng nói vài lời ngắn gọn, bật lửa châm vào ngọn đuốc, trao cho một em học sinh lớp bảy của Nam. Em ấy là liên chi đội trưởng. Cầm ngọn đuốc bập bùng cháy sáng, cậu bé nhỏ con nhưng có giọng nói sang sảng tên Ngày chạy quanh một vòng trong tiếng reo hò, vỗ tay giòn giã, rồi cất lên một bài diễn từ rất mạch lạc. Lại tiếng vỗ tay, khi Ngày châm đuốc vào dải vải tẩm dầu từ chiếc lon thả xuống. Lửa leo lên theo dải vải, và lon sữa bò bùng cháy. Sợi cước đứt, chiếc lon như mang lửa từ hai lá cờ, thứ lửa tinh thần, theo dây thép xẹt một làn mạnh xuống ba chồng củi đã được rưới dầu sẵn. Lửa bùng lên. Tiếng hát của thầy trò vang lên đón chào vầng trăng Trung thu, vầng trăng của tuổi thơ.
Trời tháng tám âm lịch ở cao nguyên se lạnh. Lửa bừng sáng rực rỡ. Hơn hai trăm rưỡi gương mặt ngời chói, lung linh. Tiếng hát các em cũng sáng lên. Hai lá cờ bay bay.
Rồi các tiết mục văn nghệ bên đống lửa bùng.
Không có một chiếc bánh, cây kẹo nào cả!
Lộc biếc hát một bài ca thiếu nhi, lại thêm một bài nữa. Gió bạt nhẹ tiếng hát của cô, có nhiều lúc nhòa đi ca từ, tan vào mênh mang. Xong hai bài hát, cô trở về chỗ đứng, thấy niềm vui trong lòng đã chen vào chút gì nghèn nghẹn. Cô biết, đêm nay, học sinh của trường cô, một ngôi trường ở vùng kinh tế mới, dẫu sao cũng có một đêm khác đi với bao nhiêu đêm bình thường. Đêm bình thường, cho dù đêm trăng, chỉ tù mù riêng mỗi nhà một ngọn đèn dầu. Với Lộc Biếc, cô biết, trăng thành phố quá vô nghĩa, cô cũng hiểu, lửa giữa hoang sơ này mới thật lửa. Trăng với lửa tuyệt vời ở đây tuổi thơ cô không có được. Có những vẻ đẹp bao đứa trẻ thị dân không thể có cơ may cảm nhận bằng tình rẫy nương trong máu.
Vầng trăng cổ tích! Cổ tích có chút châm biếm thói ích kỉ của chú Cuội khư khư giữ kín thuốc giấu, có niềm khát vọng chữa lành mọi vết thương đau trần thế, và còn có cả hai tâm trạng cô đơn nghìn năm vời vợi – nỗi nhớ trần gian –, dân dã thôi nhưng sâu thẳm hơn cả Xen Ê-xuy-pe-ri (Saint-Exupery). Lộc Biếc ngẩng mặt lên vầng trăng, vầng sáng của cô Hằng. Vâng, ích kỉ đồng nghĩa với cô đơn và cô độc, tuy có vợ có chồng ngày ngày bên nhau. Và cũng bởi ích kỉ, cây đa thần dược thành nơi phóng uế phàm tục! Vâng, ích kỉ sẽ tự đày mình vào một hành tinh hoang vắng. Vầng sáng tự ngàn xưa mờ mờ in dáng cây đa cổ thụ như một vết nhơ đa nghi, ích kỉ, cô độc!
Và lửa! Lửa bái hỏa giáo. Lửa Pơ-rô-mê-tê (Prométhé) cứu con người khỏi mông muội, chống lại sự độc ác của Thần Tối cao giam hãm loài người trong sự ăn sống nuốt tươi, trong bóng tối. Lửa, cuộc cách mạng vĩ đại của trần gian thời tiền sử. Lửa khát vọng sống. Lửa, nguyên tố của nguyên tố và của trái tim Con Người. Lửa truyền thống.
Lộc Biếc cùng anh em giáo viên của cô, cùng các học sinh của cô, hát với trăng, với lửa. Cô bàng hoàng phát hiện ra trăng và lửa trong tâm thức cô không dính líu gì với tuổi thơ của đêm trung thu! Trăng và lửa trong cô quá người lớn, thuộc về con người nói chung, dẫu trong con người nói chung có cả tuổi thơ, trong người lớn nào cũng có đứa trẻ của hồi ức.
Lộc Biếc sững sờ trước phát hiện về chính mình. Cô ngơ ngác nhìn Khoai, Nam, Huyện đang vỗ tay hát.
Lộc Biếc có cảm giác sự phát hiện của chính cô về cô đã đẩy cô xa khỏi sân trường này. Lộc Biếc hoảng hốt. Lộc Biếc nắm chặt hai bàn tay nhỏ bé của hai học sinh đứng hai bên cô. Hai em nhìn cô, chẳng hiểu vì sao.
Lộc Biếc lại hát to hơn, đến nỗi cô cũng không ngờ. Không, đừng đẩy cô rời xa khỏi những vòng tròn yêu thương này, vòng tròn tuổi thơ này!
Một Trung thu nghèo khó sao đẹp lạ lùng, năm ấy!
Lộc Biếc đâu ngờ chính bởi hạn chế của mình và Bảo Nghĩa, cô đã cùng sáng tạo ra một Trung thu khác hẳn nghìn xưa, để trăng trong tuổi thơ sáng ngời hơn nhờ trăng cổ tích, để lửa trong tuổi thơ chói sáng hơn nhờ lửa của những loại lửa cô thốt nhiên bàng hoàng đến bối rối nhớ. Đáng tiếc là sáng tạo ấy diễn ra một nửa chỉ nơi tâm tưởng.
Lộc Biếc quả thật đã không ngờ, “cái khó đã làm rõ cái khôn”, mới mẻ và sâu thẳm: một đóng góp làm mới Trung thu.

8

Nam tì tay lên bậu cửa sổ của lớp học, nhìn bâng quơ ra vườn sau của trường. Những hàng dâu tằm với hai sắc độ của màu xanh lá, xanh sáng non, xanh thẫm già, đang lóng lánh sương trong nắng sớm. Những bụi chuối, chẳng lẽ do máy cày năm nào dựng trường đã bạt đi lớp đất màu mỡ để lấy mặt bằng, nên còi cọc? Và cỏ ống, cỏ tranh xanh tua tủa trên các luống khoai đã dỡ. Nam nhìn ngắm vườn trường trong lúc học sinh lớp bảy, do Nam chủ nhiệm lẫn dạy sử, cả ngữ văn tiếng Việt, đang viết tập làm văn. Thỉnh thoảng anh quay mặt lại để nhìn các em. Cả lớp chỉ ba mươi hai em, có em ở tận khu B, khu C, cách Phân hiệu A này đến sáu, bảy cây số đường đồi. Các em ở xa như vậy, phải rời nhà từ rất sớm, lúc trời còn tối và lạnh buốt.
Nam lặng nhìn K’Bẻo, một học sinh bị bệnh bạch tạng, tóc trở màu bạch kim, mắt xanh lơ, cận thị nặng, phải ngồi ở bàn đầu, bên cạnh K’Bri, Ka Tem. Nước da của hai bạn kia nâu sẫm, K’Bẻo lại trắng hồng, các sợi lông măng trên da cũng trắng. K’Bẻo như một đứa trẻ châu Âu nghèo khổ, lạc loài ở buôn làng bên C và ở trường này.
Nam đi tới, đi lui giữa hai dãy bàn ghế. Anh cúi đầu nhìn bước chân mình trên nền đất của lớp học. Những giờ học sinh tập làm văn thế này, Nam nhớ ngày xưa thầy giáo, cô giáo anh cũng hết tựa bậu cửa sổ lại đi tới, đi lui như thế. Nam mỉm cười một mình.
Nam lại nhớ chuyến đi Đà Lạt với Khoai vừa rồi. Anh không còn băn khoăn gì nữa. Lời hứa hẹn vẫn treo trên ấy, nhưng Nam vẫn hiểu đó là lời từ chối khéo. Anh không còn hi vọng được chuyển qua làm báo. Dẫu sao, cũng cảm ơn tấm lòng nhà văn Đan Sử. Và thôi, đành vậy, chẳng buồn làm chi! Anh cố giữ lòng được bình thản. Bước vào đời, đi xin việc, trừ một số ít may mắn, còn phần lớn đâu dễ dàng gì. Anh không đạt được nguyện vọng, cái chí nguyện nung nấu suốt thời học sinh trung học, đến thời sinh viên phải tắt đi, để rồi với hai cái thư của nhà văn Đan Sử, lại sục sôi, bùng dậy. Và lại tắt ngấm! Thôi thì đành vậy. Dẫu sao, Nam biết mình không rơi vào trường hợp thất nghiệp, phải quẳng bút, cầm cày, cầm cuốc hay lêu bêu, quay quắt ở chợ trời. Bản lĩnh của một con người là không buông mình vào nỗi chán đời phiền muộn. Làm thơ, viết văn, có cần gì đâu ngoài cây bút và xấp giấy trắng, với những khoảnh khắc thời gian rất một mình. Anh đã có điều kiện tối thiểu ấy. Nam tự nhủ, mình phải bình tâm. Bản lĩnh là phải tự lo liệu, đứng trông chờ vào ai, bất kì hội đoàn nào. Trước hết, phải có tác phẩm. Cuối cùng, phải có tác phẩm. Suốt đời phải học, phải sống hết mình, phải chiêm nghiệm, trăn trở, sáng tạo, để có tác phẩm. Ngoài ra, đều vô nghĩa. Chỉ có tác phẩm mới có ích lâu bền cho cuộc đời. Vấn đề còn lại, ồ, phải đăng báo, xuất bản nữa chứ!
Hãy bình tâm, hãy bình tâm. – Nam tự trấn an –.
Nam lại tựa lưng vào vách gỗ. Những tấm ván được xẻ ra, đóng vội, chưa kịp bào nhẵn, đã khô rút, để lộ ra những khe hở. Anh lắng nghe tiếng giảng bài của Lộc Biếc ở lớp tám bên kia. Nam đã “bị” cô gái với giọng Sài Gòn lôi cuốn vào một bài thơ.
Lộc Biếc hầu như quên phắt phát vấn. Suốt nửa tiết dạy cô không hề đưa ra một câu hỏi nào cho học sinh. Cô cứ thao thao giảng, giọng tràn đầy cảm xúc, có lúc bừng lên chất trữ tình hùng tráng. Đây không phải là bài thơ cảm động đến rơi nước mắt. Bài thơ này dậy lửa. Nam không ngờ trong cô giáo xinh đẹp, thon tròn, hồn hậu kia lại có ngọn lửa hào hùng đến vậy. Nhiều lúc, Nam thấy Lộc Biếc hình như đang đứng trên giảng đường đại học chứ không phải ở lớp tám vùng đất kinh tế mới này. Cô quên chính đối tượng cô truyền thụ. Sâu sắc quá, tuyệt vời quá với các ngôn từ vừa chính xác, vừa đẹp, vừa giàu hình ảnh! Có lẽ Lộc Biếc trót quen với phong cách đại học. Học sinh bị thôi miên, nhưng chắc hẳn không nắm bắt được bao nhiêu nếu không có dàn bài cô ghi trong lúc giảng với nét phấn nhiều lần Nam đã thấy. Có lẽ Lộc Biếc trông khiêm tốn, nhỏ nhẻ thế kia, thật ra cũng hơi khoe mình? Nam mỉm cười. Đó là chất trẻ của giáo viên mới bắt đầu nghiệp dạy học. Tuy nhiên, Nam thật lòng cảm phục Lộc Biếc. Từ bé đến bây giờ, Nam chưa thấy ai giảng bài sâu và hay đến vậy. Có thể sâu đến giật mình nhưng không bị lôi cuốn, có thể lịm người trong ngữ điệu nhưng biết không sâu. Lộc Biếc hội đủ cả hai, mặc dù cô cũng đang chông chênh giữa các phương pháp giảng dạy.
Soạn giáo án văn đã mệt, dạy văn dẫu có phát vấn cũng mệt sức biết bao. Huy động cảm xúc rất dễ rão thần kinh! Giảng văn là nghệ thuật ngôn từ, nghệ thuật của trái tim! Lao động này cũng là lao động nghệ thuật, như Nam nghẹn thở, nóng bỏng, thở hắt, trào nước mắt lúc làm thơ, viết văn. Đâu chỉ là lao động trí tuệ!
Tiếng kẻng đổi tiết vang xuống từ nhà tập thể – văn phòng. Nam nghe Lộc Biếc vội củng cố trọng điểm rồi hẹn các em ở tiết học sau. Nam còn phải trông các em lớp bảy làm văn thêm một tiết nữa. Anh Quỳnh và Khoai đi ngang qua cửa, dọc hành lang, nhìn vào mỉm cười với Nam. Nam cũng mỉm cười đáp lại.
Nam lại tì tay vào cửa sổ, nhìn ra vườn trường ngập nắng. Lúc này, Nam mới nhìn xuống những đường giao thông hào chỉ cách nền trường khoảng một mét. Đầu năm, khi mới tựu trường, anh Giảng đã cho học sinh vét bùn đọng, làm sạch cỏ từ trên phủ xuống hay mọc ngay đáy và vách của hào. Bài giảng của Lộc Biếc có liên hệ đến tình hình biên giới với chiến trận đang căng thẳng, khiến Nam, cố quên đi trong thời gian nhận nhiệm sở, lại sực nhớ. Tổ quốc đã hòa bình đâu! Kẻ thù suốt bốn nghìn năm, sau mấy thập niên ngỡ thắm tình láng giềng, đồng chí, lại lộ rõ bản mặt bành trướng! Cảm hứng lịch sử thắp lên ngọn đuốc trong anh, sáng ngời, soi tỏ. Và Lộc Biếc không còn là Lộc Biếc nữa, mà gồm cả các cô giáo khác ở cấp một đang đứng lớp, trở thành người em, người yêu của người cầm súng. Những ý thơ nở bừng, đằm thắm trong sâu thẳm lòng anh.
Nam vẫn tì tay trên bậu cửa sổ, nhìn ra vườn trường. Những giao thông hào, dâu xanh hai tầng sắc độ, các khóm chuối cọc còi đang ngập nắng rực rỡ. Nam quên phắt chính anh.
Những câu thơ đầu tiên của bài thơ mới sáng lên chưa rõ nét kéo anh như kẻ mộng du lững thững đến bàn viết. Nam hoàn toàn nhập thân vào hình tượng thơ ca. Anh nắn nót câu đầu tiên với nét chữ tròn rất con gái của Lộc Biếc! Cơ hồ nét chữ Lộc Biếc đã ở trong anh lâu lắm rồi.
Lộc Biếc là tháng giêng! Nét bút, ánh mắt học trò là tháng giêng! Nam cũng nhớ một bài thơ của ai đó được phổ thành nhạc, hôm nào Lộc Biếc đã hát cho anh nghe. Nhà thơ ấy cũng gọi đất cao nguyên là xứ sở của tháng giêng. Nam không muốn lặp lại của người khác, nhưng bài hát ấy đã thành kỉ niệm của Lộc Biếc và anh. Nam phân vân, anh cũng sợ rơi vào khuôn sáo …
Nắng bỗng phai nhạt hẳn ngoài sân, ngoài vườn. Trời âm u, lắc rắc mưa. Rồi lại một hừng đông mới. Bao nhiêu hừng đông trong một ngày cao nguyên!
Quên mình đi, anh mới thấy tấm lòng của đất trời là của con người cao nguyên, của các cô giáo quên tuổi thanh xuân mình nơi đây. Không, đúng hơn, thanh xuân của các cô gái trẻ cầm phấn trắng, trang sách ấy tươi đẹp bởi sự hi sinh bình lặng.
Quên hết ca từ, giai điệu để nhớ mỗi tấm lòng. Tấm lòng đến với tấm lòng, ấy là thơ và nhạc. Có gì mới mẻ đâu!
Kẻng báo hiệu đổi tiết học, Nam tỉnh lại trong sự khuôn sáo!
Trong khi học sinh nối nhau lên nộp bài, Nam không ngờ từ mông lung, bâng quơ, anh lắng nghe Lộc Biếc giảng bài, một tứ thơ đến với anh. Liên tưởng này kéo theo liên tưởng khác, những ấn tượng, những kỉ niệâm bình thường không ngờ sẽ là thơ cũng đã thành thơ. Nhưng chỉ mới mươi dòng, tứ thơ chưa trọn nổi hình dáng! Và Nam lại nghĩ, có những giá trị không hề cũ, như tuổi trẻ và sự hi sinh chẳng hạn, cứ mãi sinh động trong sáng tạo! …
đây năm mười hai tháng giêng
ngày đây mấy lần nắng sớm
em như con chim đồng ruộng
lên cao cứ muốn hót hoài

lời ru này là của ai
em hát tôi nghe chiều nọ
thuộc rồi sao tôi chỉ nhớ
mênh mông tấm lòng cao nguyên

tiếng hát em là tháng giêng
gió xanh lay từng ngọn tóc
trang vở đơm mùa lộc biếc
lớp học bốn bề tháng giêng

đường hào vây quanh trường em
giữ gìn tháng giêng và nắng
tiếng hát vót thành chông nhọn
thành hoa hồng thắm khăn quàng

cao nguyên chót vót nghìn năm
đất vẫn hồng thời mới lớn
bài ca ngỡ đã xa xăm
lại bừng trên môi nỗi giận!

đêm sao hứa ngày nắng ấm
sáng xanh nương rẫy lên mầm
giấc mơ gối lên giáo án
sáng lòng mực đỏ, đêm đêm

tháng giêng tháng giêng là em
là bao bài thơ nét bút
tháng giêng trong từng ánh mắt
ngôi trường đất mới mãi giêng!

yêu sao tấm lòng cao nguyên
quanh năm ngày dài nắng sớm
biên giới giữa lòng kẻ đậm:
tiếng hát căm hờn – yêu thương

em thành đóa hoa pơ-lang
nở bên hàng rào thẳng đứng
cho ai là người cầm súng
biết hậu phương hoài tháng giêng (8)

Hơn mười ngày sau, Nam mới tạm hoàn tất bài thơ. Thơ anh đã nâng lòng anh lên một tầm cao khác trước, ít ra là thế. Anh đã biết quên mình nhờ thơ ca và Bảo Nghĩa.
Đó là “Ngôi trường tháng giêng”, như là một kỉ niệm, hơn là một bài thơ hay của Nam.
Mãi ít lâu về sau, Lộc Biếc mới thú thật, chính ba của cô, thời thanh niên của ông, ông đã phổ mấy câu lục bát do mẹ cô sáng tác thời con gái để thành hóa tình yêu của họ, một tình yêu ngỡ tan vỡ nhưng đã son sắt đến trọn đời.
cao nguyên lòng hoài tháng giêng
rừng dâng lộc biếc cho thiêng tình hồng
em buồn, anh có thương không
tim bé bỏng giữa mênh mông Phố Trời … (9)

Lộc Biếc đã hát cho Nam nghe năm ấy, có điều, cô không ngờ Nam đã “dự giờ” của cô bên kia vách gỗ vào sáng hôm đó. Sáng hôm đó, Lộc Biếc đã sống thơ, còn Nam lặng lẽ làm thơ.

9

Đầu tháng mười, đã bắt đầu mùa khô. Lộc Biếc nhìn ra khung cửa ra vào ở căn nhà nữ. Nắng vàng tươi trải mênh mông trên các quả đồi xanh dâu tằm, khoai sắn, và xa hơn, trên các đồi trà của nông trường. Nắng lóa trên những mái tôn khu K. Một vài người thong thả bước giữa nắng trưa, người Kinh bên người Thượng. Đang mùa thu hoạch, có lẽ họ đã bàn bạc để gùi thóc lúa về nhà trao đổi những hàng hóa gì đó với nhau. Ở xã Bảo Nghĩa này, chỉ có một buôn làng Chiau Mạa (một nhánh của nhân tộc K’Hor?). Buôn này tạm cư ven Đa Công thời chiến tranh, từ sau Ngày Giải phóng mới về định canh, định cư ở C, cách làng mới của dân Quảng Ngãi ở A mươi quả đồi, một con suối lớn. Lộc Biếc thấy thú vị khi người đàn ông Chiau Mạa ngậm tẩu thuốc lá, nhìn vào chỗ cô ngồi, rồi nói gì đó với người Quảng Ngãi kia. Nắng cơ hồ chói sáng ở miệng gùi đầy thóc vàng. Cô ngỡ đang ngắm một bức tranh với những đường nét vừa thơ mộng, vừa mềm mại, vừa gân guốc, khỏe mạnh: gùi trăng đi giữa nắng vàng. Lộc Biếc rất thích sáu chữ vừa nảy ra trong đầu cô. Như một câu thơ! Nhưng thôi, Lộc Biếc đã quên rồi mơ ước làm thơ. Từ năm lên đại học, cô lại mê những trang văn nghiên cứu, phê bình văn chương. Từ đó, Lộc Biếc theo đuổi các thao tác khoa học của bộ óc và của trái tim. Cô thích những khám phá, phát hiện, đặc biệt là những sáng tạo trên các văn bản nghệ thuật ngôn từ. Cô không rõ cô có kiêu hãnh không, khi cô nghĩ khác với câu nói chấm biếm khá nổi tiếng của một nhà văn nước ngoài: “Nhà phê bình văn học là nhà văn hỏng”. Trái với câu nói đó, Lộc Biếc thấy có nhà thơ, nhà văn viết đôi tác phẩm rất thành công, nhưng trí tuệ, kiến văn họ quá xoàng. Họ có năng khiếu, chỉ cậy vào trực giác, cảm tính. Nhưng nhà phê bình chỉ có thể thành công với một học vấn uyên bác. Lộc Biếc nhìn ra nắng, mỉm cười với ý tưởng hơi học trò vừa rồi. Chính từ ý tưởng ấy, thời sinh viên của cô, Lộc Biếc đã miệt mài học tập, ước mơ thành nhà nghiên cứu, phê bình văn chương như cô nghĩ. Là một cô gái dịu ngọt, Lộc Biếc vẫn thích mạnh về trí tuệ! Niềm kiêu hãnh rất học trò, không phải sai nhưng vẫn còn phiến diện!
Lộc Biếc cúi xuống các trang luận văn tốt nghiệp của cô, lại lơ đãng nhìn ra nắng trưa đang rực rỡ.
Theo đề nghị của anh Giảng, chị Phước và anh Quỳnh, trong tuần lễ tới, ngày nhà trường sẽ tổ chức đại hội công nhân viên chức, cả đại hội Công đoàn luôn thể, cô sẽ báo cáo một chuyên đề tự chọn cho thêm phần sinh động, hấp dẫn. Anh Giảng còn nói, đó cũng là khí thế, khí thế của hậu phương trong thời điểm mặt trận biên giới đang căng thẳng.
Lộc Biếc muốn làm một cái gì mới, song không cách nào kịp được. Vả lại, thư viện nhà trường qua nghèo nàn, Lộc Biếc chỉ bỏ mỗi một giờ để cùng cô Nhân, nhân viên thư viện, lục tìm tư liệu. Chả là, thư viện nhỏ xíu, chẳng nhiều nhặn gì. Hầu hết, sách giáo khoa sờn rách rách của cấp cơ sở. Tuy vậy, rất lạ là trong mớ sách tham khảo ít ỏi, có dăm cuốn ở thành phố Hồ Chí Minh cô không tài nào mua được … Dẫu sao, những tư liệu cô cần vẫn không có ở đây! Lộc Biếc định giở lại cuốn khóa luận tốt nghiệp được đến năm phiếu A trên sáu phiếu trong buổi bảo vệ ở trường đại học. Lộc Biếc đã mất đến năm tháng trời cho luận văn này: “Chân, thiện, mĩ và khát vọng tự do sáng tác qua tình hình văn học hai miền Nam – Bắc suốt hai mươi mốt năm bị chia cắt, 1954 – 1975”. Xuất sắc, nhưng “có vấn đề”!
Các cô giáo sau giấc ngủ trưa ngắn, đã ra thùng nước dành riêng cho cánh nữ rửa mặt, đang vào chuẩn bị soạn giáo án.
Lộc Biếc không đủ thời gian để viết gọn lại, ngày đại hội quá gần kề, cô đành dùng chì đỏ để gạch dưới các luận điểm, luận cứ chính. Rồi cô thử trình bày trong óc các luận điểm, luận cứ ấy một cách thật gọn nhưng vẫn đầy đủ. Lộc Biếc thấy trước sự hấp dẫn của buổi báo cáo chuyên đề là nhờ các đoạn bình thơ, bình văn. Cô cố gắng bình thật sinh động để dẫn chứng.
Cùng các bạn giáo viên nữ, Lộc Biếc hoàn toàn chú tâm vào công việc, quanh hai chiếc bàn lớn. Mấy hôm nay, cô không ra làm việc ở chái đầu hồi cạnh nhà nam nữa. Cô muốn giữ … bí mật!
Nắng hắt chênh chếch qua khung cửa, lan vào nền đất ẩm ướt của căn nhà, men dần vào các bàn chân con gái hồng hào, nhỏ nhắn. Buổi chiều ở nhà tập thể này thật êm ả, trừ ở chái đầu hồi, cánh đàn ông con trai đang bàn luận, bông đùa gì đó rất rôm rả.
Các cô gái làm việc cho đến khi nồi bo bo xay nhỏ ra để nấu đã sôi sùng sục sau bếp, bốc hơi thơm lừng.
Lộc Biếc lại ngẩng mặt, chăm chú nhìn theo một người đàn bà khá lớn tuổi. Có lẽ bà thấy khói bếp, đã đi vào chái sau xin châm lửa vào tẩu thuốc lá. Tẩu chạm trổ rất đẹp. Người đàn bà Chiau Mạa này thật đẹp lão với mái tóc bạc trắng, vẻ đẹp chất phác, khỏe khoắn của núi rừng cao nguyên.
Lộc Biếc mỉm cười với bà, một hình ảnh trước đây cô chỉ gặp trong tranh, trong phim. Mái tóc bà trắng chói dưới nắng xiên khoai cuối chiều, giữa lối đi đã có bóng dáng học trò tan lớp. Cô ngỡ đó là hình ảnh Mẹ Âu Cơ thời huyền sử.
Lộc Biếc bỗng thấy tiếc, cô không đủ thời gian, tư liệu để viết bài báo cáo về văn học Tây Nguyên. Đó là ý tưởng bất chợt lóe lên.
Năm cô giáo cấp một dạy buổi chiều cũng đã lên nhà tập thể, với năm nụ cười trên môi.
Khi cất luận văn, rau ngồi nhặt ra giúp cô Lài cho vui, Lộc Biếc thấy đề tài cô đã chọn nghiên cứu ở đại học vẫn bức xúc nhất, trăn trở nhất, và có ý nghĩa nhất ở thời điểm này.

10

Sáng chủ nhật, Hoán, anh Quỳnh và anh Giảng đã ra thăm nhà ở huyện lị Đa Công. Suốt một tuần dạy học, lúc này nhóm giáo viên trẻ bỗng thấy hẫng đi trong sự yên tĩnh, rãnh rỗi. Nam cũng không có cảm hứng thơ cho đỡ trống vắng. Cũng như Huyện với Khoai đang đọc sách, Nam đặt mắt vào trang chữ trên bàn, nhưng cả ba người đều thấy cần phải đi rong đâu đó.
Lộc Biếc cố quên đi nỗi nhớ nhà, nhớ không khí sôi động của Sài Gòn bằng cách đọc đi, đọc lại cuốn luận văn và suy nghĩ thêm. Cô phát hiện ra nhiều ý tưởng trong đó hãy còn chưa chín. Cũng như quả trên cành, ý tưởng cũng cần có thời gian để vượt qua độ xanh chát. Lộc Biếc đang nỗ lực trong lặng lẽ, song cô nhận thấy nỗi nhớ vẫn canh cánh bên lòng chưa khuây. Phần lớn vì nỗi nhớ nhà này, Lộc Biếc dạo này gầy đi.
Năm hôm nay, cô cũng ít thì giờ để chuyện trò, bàn luận chuyên môn với nhóm cấp hai như tuần trước, chỉ trừ ở hai bữa ăn hàng ngày, những khắc ra chơi giữa các buổi dạy.
Chợt người em trai bên chồng của chị Xinh đạp xe đến: chị Xinh mời bốn giáo viên mới về trường tới nhà chơi. Và như một giải thoát, cả bốn người bước ra khỏi khuôn viên nhà tập thể, cơ chừng thoát khỏi nỗi trống vắng nặng nề đang đeo đuổi trong tâm tư họ.
Bốn người cảm thấy nhẹ nhõm hẳn đi, khi bước trên con đường rộng giữa hai dãy nhà cùng kiểu dáng, mái tôn vách ván, liền căn này với căn kia. Họ lại chuyện trò, bông đùa với nhau.
Nhà chị Xinh, cô giáo đầu tiên nắm chặt tay Lộc Biếc hôm cô mới đến nơi này, ở đầu xóm trung tâm. Đó là ngôi nhà đã tách khỏi khu liên kế, cất lên giữa một mảnh vườn nhỏ, giống như bao ngôi nhà nông thôn khác. Chị Xinh ra tận ngõ để đón. Chị đã ngoài ba mươi tuổi, dạy tiểu học trước Ngày Thống nhất ở Quảng Ngãi mười năm, vẫn gọi các đồng nghiệp trẻ của mình theo cách gọi truyền thống.
- Về trường cả tháng rồi, hôm nay các thầy cô mới đến nhà chơi đây. Quý hóa quá! – Chị Xinh với giọng Huế đã hơi pha, đon đả chào –.
Và không đợi trả lời, chị Xinh nói luôn:
- Các thầy cô vào nhà uống nước. Hồi nãy, đứa em ra rẫy, có nhờ mời nhắn, cứ sợ không ai tới, lo nồi xôi nếp mới mất may xưa! – Chị Xinh cười thật tươi –.
- Dạ, cảm ơn chị Xinh, vậy thì hên cho bọn em quá. Lâu nay quên mất nếp gạo, “may xưa” lại “hên nay”. Cảm ơn chị trước cái đã. – Nam cười giữa những nụ cười bè bạn –.
Chiếc bàn chữ nhật làm bằng gỗ thông với hai băng ghế đặt giữa căn nhà chính, trước bức rèm vải đã cũ vốn ngăn nơi tiếp khách với bàn thờ. Bình nước ủ trong cái ấp nước có vỏ nhựa được chị Xinh lấy ra, rót vào các tách nước bằng sành. Nước chè xanh!
Nam và Khoai quá cảm động với không khí gia đình rất miền Trung ở đây. Huyện cũng vậy, anh nâng tách nhấp một ngụm trước tiên, không đợi chủ nhà mời. Nước nóng bỏng. Huyện cười, đặt tách xuống, liếm môi.
- Nhanh nhẩu đoảng! – Lộc Biếc cười khanh khách –.
- Buổi sáng quên thói quen lót lòng, gặp nước chè xanh thích quá là say ngất ngư đấy! – Nam nói rất chân thật với nụ cười –.
- Say càng tốt! – Huyện vờ nói liều –.
Lộc Biếc sực nhớ, suốt tháng nay cô quên bẵng chuyện điểm tâm. Trong khó khăn chung, ai cũng giống ai, nói lên việc nhịn bữa sáng không gây cảm giác nào ngoài sự thân mật của những người cùng một nhà, mặc dầu là nhà tập thể. Có những điều, trước đây sẽ rất ngượng khi nói ra với nhau, nhất là việc ăn uống.
Khoai vẫn tỏ ra khoan khoái khi nhấp từng ngụm nước chè xanh. Anh nhìn chăm chăm các nong tằm được đặt trên giá gỗ nhiều tầng, mỗi giá như vậy đến sáu nong lớn. Tằm đang độ ăn rỗi, nghe rào rào rất thú vị. Cả hai căn hai bên đều rộ lên tiếng ăn của tằm. Khoai và Nam rời ghế, chăm chú quan sát. Trên các giá gỗ, dưới lưng nong tre đều có nét sơn đỏ ghi các chữ viết tắt: Đ. 6, HTX. x. BN., h. C. (10).
Lộc Biếc và Huyện cũng bước khỏi bàn nước, đến gần, thích mắt với các thân tằm trắng lẫn vào lớp lá dâu xanh mượt. Tằm chưa đến độ trở màu trong, đang ăn rất nhanh. Đây cũng là lần đầu tiên bốn người bạn trẻ được thấy tằm ăn rỗi.
No mắt, Khoai lại nhìn một sào tre dài bắc ngang hai mối dây buông xuống từ đòn tay mái nhà. Trên sàn tre lủng lẳng các túm khoai lang củ còn nguyên dây, dây đã cắt đi phần ngọn có lá. Khoai ngơ ngác. Chẳng lẽ để giống cho mùa sau? Ở quê Khoai, chỉ bắp, ớt mới vậy. Ồ, như thể bị treo tay hay “án treo”!
Nam cười một thôi dài trước khi đọc lớn:
- thân tằm rồi phải nhả tơ
còn khoai, Khoai ạ, đang chờ …

Lộc Biếc phá ra cười khi Khoai đọc tiếp:
- vô soong!
Khoai nói liều, thật ra chưa rõ sào củ này sẽ được sử dụng vào việc gì. “Án treo”? Sao anh liên tưởng quái gỡ thế! Anh hơi ngạc nhiên về mình.
Bé Ngoan, con gái của chị Xinh, chạy vào. Cả bốn người ngưng tiếng cười đùa nhìn ra: anh Ruộng đang bước vào ngõ. Huyện bao giờ cũng nhanh nhẩu, bước ra vin tay vào khung gỗ, tay kia đưa lên chào vui:
- Kính chào đồng chí bí thư!
Anh Ruộng đan những ngón tay vào nhau, đưa lên quá đầu:
- Kính chào các đồng chí chiến đấu! – Anh Ruộng cười, đùa lại –.
Chị Xinh ở dưới nhà bếp chào vọng lên.
Lát sau, chị bưng lên hai dĩa xôi đầy bốc khói. Bên cạnh chị, Ngoan với chồng chén đũa, trên chồng chén là dĩa muối mè nhỏ. Lộc Biếc và Nam đỡ lấy, đặt xuống bàn.
- Sáng nay phải ở nhà coi chừng tằm, nhân có nếp mới, thổi xôi mời các thầy cô cho vui. – Chị Xinh ngồi xuống ghế với Ngoan –.
Nam nói:
- Thời buổi này, vậy đã là đại yến!
Mọi người cùng cười. Bây giờ ai cũng đã biết sào củ dùng để ghế vào cơm hoặc xôi. Các lát khoai ngọt sắc, do củ đã khô bớt nước sau vài hôm được treo như vậy.
Chị Xinh vui vẻ mời khách dù khách đã nâng chén đũa.
- Chúng em đang ăn rỗi như tằm, cảm ơn chị Xinh. – Nam đùa tếu –.
Lộc Biếc hơi đỏ mặt nhưng vội vui ngay:
- Nếp mới thơm quá chừng. Lần đầu em thấy nếp thơm như vậy.
- Nếp, tẻ, gieo ở rẫy đều vậy, có điều năng suất thấp. – Anh Ruộng nói –. Đất này là đất dâu tằm, cây công nghiệp.
- Nhà anh Ruộng cũng ở xóm này chứ? – Huyện nhìn qua –.
Anh Ruộng gật đầu:
- Cách đây mươi nhà. Mình sức khỏe kém, nên chỉ làm vườn thôi.
- Chị Ruộng khỏe gấp đôi mọi người, đúng là anh Ruộng khéo chọn. – Chị Xinh nói, đơm thêm xôi vào chén cho anh –. Không ai giỏi bằng chị Huân nhà anh.
- Chị Huân? – Nam nói –. Ồ, quý nhất. Người vợ như thế đúng là một huân chương.– Nam tinh nghịch bằng cách nhấn mạnh chữ huân –.
- Hay! Đúng là huân chương cho đồng chí thương binh chống Mỹ: Cao Văn Ruộng! – Huyện chơi chữ tiếp, trong sự vui vẻ của cả bàn –. Nhưng Mỹ đây phải hiểu là Xấu (11).
Lộc Biếc khẽ hỏi:
- Anh Ruộng bị thương hồi năm mấy hở anh?
Anh Ruộng chỉ tay vào bao tử:
- Hồi sáu bảy kia. Mỹ bắn một phát toác mất một góc dạ dày. Lại bị bắt. Nằm ở bệnh viện thị xã Quảng Ngãi, tôi cưa xích trốn mất dù vết mổ chưa lành hẳn. – Anh cười hề hề –. Bệnh tôi ăn xôi nghe đâu rất hợp.
- Không. Loét kia. – Huyện nói –. Nhưng loét hay không xôi vẫn bổ dưỡng!
Lại hai dĩa đầy nữa được bưng lên.
- Mời các thầy cô ăn thật no nghe. – Chị Xinh vui vẻ –.
- Không mời học trò Ngoan sao? – Nam nói, cười với Ngoan.–.
Ngoan bẽn lẽn.
Khoai thấy anh Ruộng ăn không được nhiều, chắc hẳn vì bao tử đã hẹp lại. Lâu nay, Khoai để ý thấy sáng sáng anh Ruộng đến trường dạy học, đầu buổi hoặc cuối buổi ghé vào văn phòng hay căn nhà nam uống nước dăm phút. Các cô giáo cấp một cùng khối nói rằng năm ngoái, phải dạy thay cho anh Ruộng nhiều buổi, người dạy thay nhiều nhất vẫn là cô hiệu phó. Anh Ruộng hay nghỉ ốm, do vết thương cũ làm sức khỏe anh giảm nhiều. Khoai đơm thêm cho anh Ruộng một chén xôi, cố ý không để một lát khoai ghế nào vào chén, mặc dù Khoai và các bạn lâu nay cũng đã quen không ăn được nhiều như trước.
Anh Ruộng hỏi Khoai:
- Đồng chí Khoai cùng quê với đồng chí Nam?
- Vâng. Em là người gốc ở làng ngoại của Nam, nhưng không bà con gì cả. Làng em với làng Nam gần nhau, học với nhau từ nhỏ, lúc vào cấp hai đến khi vào đại học, bây giờ cũng dạy cùng trường.
- Làng Nam, làng Khoai tên gì? – Chị Xinh, chăm chăm nhìn Nam, chờ câu trả lời –.
- Làng Đường Đàn và làng Thuận Xá. – Khoai đáp –.
- Tôi vốn người làng Đường, Quảng Trị đây! Chẳng lẽ …– Chị Xinh hơi xúc động, nhìn Nam như muốn nhận mặt – … chẳng lẽ Nam là con ông Sao, thiếu tá hồi ngụy …
Nam gật đầu trong lúc mọi người lắng nghe.
- Thôi, quá bất ngờ! Chị Xinh hồi nhỏ hay ra nhà Nam, lấy đất sét dưới Ruộng lên cho Nam chơi, Nam không nhớ sao?
- Hồi đó em còn quá nhỏ. – Nam cảm động mỉm cười –.
- Chị Xinh cũng người trong họ Nguyễn Trần đây, Nguyễn Trần của làng Đường mình đó. – Chị Xinh rơm rớm nước mắt –. Lúc Nam mới về trường, tôi đã linh tính …
- Nhưng sao đồng chí Xinh lại vào Huế, rồi vào Quảng Ngãi? – Anh Ruộng hỏi, thật ra anh cũng đã biết –.
- Gia đình vào Huế từ năm sáu mươi. Sáu lăm lại gặp ba bé Ngoan đi lính ngụy, đóng quân ngoài đó. Tôi làm dâu Quảng Ngãi từ sáu sáu. Bé Ngoan được sinh ra, cuối sáu sáu.
Nam vuốt tóc bé Ngoan. Ngoan là học sinh lớp bảy đo Nam làm chủ nhiệm, không ngờ cũng có bà con với anh. Nam bâng khuâng không biết nói gì. Cả bàn bỗng lắng lại mấy phút.
Lộc Biếc thấy bữa ăn đã xong, lặng lẽ rót nước ra những cái tách. Anh Ruộng muốn gợi thêm chuyện tình chị Xinh, song rồi thôi. Chị Xinh bồi hồi nhắc lại kỉ niệm ở làng Đường:
- Hồi nhỏ, Nam thích chơi đất sét lắm. Một cục đất nặn một tượng to, rồi phân chia từ tượng to ấy thành mấy tượng nhỏ. Cứ thế, nặn hoài. Khô rồi lại rưới nước cho mềm ra, nặn lại. Tượng đều là tượng khỉ, con vật cầm tinh, vì Nam tuổi bính thân!
Cả bàn bật cười. Khoai chợt nhớ lời cô Lụa hôm nào, lúc cả nhóm cấp hai soạn giáo án: “Tôi thấy bốn đồng chí này giống nhau quá!”. Ừ, đều là tuổi khỉ cả mà. Nhưng con vật cầm tinh giống nhau, chỉ thế, còn giống nhau gì đâu?! Thần thoại, liêu trai cho có chuyện đùa!
Chị Xinh lại hỏi thăm chuyện nhà, chuyện làng nước. Lộc Biếc lắng nghe để hiểu một làng quê cô chưa hề đặt chân tới bao giờ.
Lộc Biếc mỉm cười, sửa một câu thơ cổ:
- “tha hương ngộ … cố hương”! (12)
- Này, Lộc Biếc, đừng lấy thơ Tế Hanh để sửa nhé. Lấy thơ Quảng Ngãi sửa thơ Tàu là …– Khoai ngừng lại –.
- Là quá hay.– Lộc Biếc cười khanh khách, thích thú –. “Mặt Nam là quê hương”! (12)
Nam vuốt mặt, cặp kính cận lấp lánh phía trên bàn tay anh:
- Đừng chê quê hương tôi nghe chưa! – Nam cười –. Ví bản mặt “ cận thị” này với Quảng Trị là xúc phạm Quảng Trị đó.
- Xin thua! – Huyện nói –. Trường liên tưởng của ba đồng chí chiến đấu này phải nói là một, số dzách! Một sáng chủ nhật quá tuyệt. Có điều, ngon nhất là tình cảm, kế đến là xôi nếp mới, chứ không phải thơ! Phải không anh Ruộng?
Anh Ruộng cười xòa:
- Thôi, tôi phải về trông gà, trông qué kẻo tan mất cái vườn, luống cải, luống ngò …– Anh bắt tay mọi người, rồi bước ra cửa –. Có xôi mới có thơ, “có thực mới vực được đạo” –. Anh ngoái lại –.
Cả nhóm bạn cũng chia tay với mẹ con chị Xinh. Đến đầu ngõ, chị Xinh nói:
- Cậu Nam với mấy thầy cô biết nhà rồi, thỉnh thoảng ghé chơi nhé.
- Nếu ngày nào cũng có xôi thế này … – Huyện cười phá lên –.
Nắng đã rất to, vàng rực cả con đường đất đã khô ráo còn lồi lõm vết chân người, vết bánh xe. Cả bốn người đi ngược đường với anh Ruộng để về trường.
Dọc đường, Khoai suýt buột miệng chào nhưng lúng túng vì không biết người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi vừa đạp xe ngang qua tên gì. Ông ta nhìn Khoai và Nam, rồi vẫn đạp xe đi thẳng.
- Nam nhớ anh ấy không? – Khoai nói –. Người ngồi bên cạnh anh em mình hôm ở Đà Lạt về đó.
Nam gật đầu:
- Không ngờ! Hôm nào gặp lại, mượn cuốn Rơ-mác xem lại thử.
- Anh ấy ở đây chứ đâu! – Huyện nói –. Làm nghề sửa, vá xe đạp đầu xóm anh Ruộng. Anh ta tên là Trà. Mình có lần ghé quán cóc của anh Trà rồi … Vừa bán bánh kẹo, thuốc lá, vừa sửa xe đạp.
- “Lão” đó không xoàng đâu. Mình đã nói chuyện với anh ấy. – Khoai nói –.
- Rơ-mác? “Một thời để yêu, một thời để chết”? – Lộc Biếc hỏi, rồi nói thêm –. Tình yêu đẹp trong đau đớn, có điều, Tây quá!
Khoai gật đầu. Nam nhìn xuống đôi dép cao su quai vải của mình.
Dọc đường về, một số em học sinh lấp ló trong cửa, đợi thầy cô đi ngang qua là chạy ra, vòng tay cúi đầu chào. Lộc Biếc quá cảm động bởi tình cảm học trò trong cách biểu hiện đáng quý như vậy, cách biểu hiện ngỡ chỉ còn thấy trong sách viết về thời Nho học. Cô lại nghĩ, như có lần nào đó Nam đã nhắc lại một ý của Lục Du: “Muốn làm thơ hay phải học ở ngoài thơ”, muốn nghiên cứu văn học và dạy văn tốt, sao sáng nay cô suýt đắm mình vào luận văn?! Lộc Biếc tin rằng chiều nay cô sẽ nghĩ sâu hơn những gì cô đã viết ở khóa luận, ít ra là có một sáng chủ nhật thư giãn, biết tận mắt thế nào là tằm và tơ ... Phải vừa là mọt sách, vừa là cánh chim, cánh bướm hay chú dế mèn!
Bốn người về đến sân nhà tập thể, cũng vừa gặp ba cô giáo đi thăm gia đình học sinh về. Dưới ba chiếc nón lá, ba gương mặt mười tám, hai mươi được hơi nắng phả vào, tươi hồng lên.
Nãy giờ, Khoai chạnh nghĩ về những tượng khỉ bính thân thuở thơ ấu của Nam, lại băn khoăn mãi về điềm lành, điềm dữ dạo gần đây anh mới để ý. Khoai tự bảo, sao anh thi thoảng lại có những khía nhìn bi thảm từ sự vật ngẫu nhiên gặp, như “án treo”, người bị treo tay, chân hẫng đất, khác nào vận vào mình! Có lẽ nào là Kiều với ám ảnh vô thức, ai đó đã lí giải? Ám ảnh ấy có xui khiến gặp phải bất hạnh trên bước đường tương lai? Cơ sở nào để anh mắc phải “bệnh” này? Thây kệ chúng! Khoai mỉm cười nhìn nắng ngoài sân.

Xin xem các chương kế tiếp

1 Comments:

Post a Comment

<< Home