TRAN XUAN AN - NGOI TRUONG THANG GIENG

Wednesday, November 23, 2005

NGÔI TRƯỜNG THÁNG GIÊNG (phần III)

TRẦN XUÂN AN

NGÔI TRƯỜNG THÁNG GIÊNG

phần III
(tiếp theo phần II [đoạn 11 – đoạn 20])


21

Ngoan thấy thầy Nam đang ngồi làm thơ trong căn nhà nam. Đôi mắt thầy xa xăm, thỉnh thoảng mới viết thêm một dòng, rồi gạch, xóa, lật qua trang khác, hình như chép lại khổ thơ mới viết. Ngoan đi qua sân, vờ như xuống trường. Nhưng xuống đó làm gì vào buổi chiều. Ngoan quay bước, định về nhà. Ngoan chợt thấy thầy Khoai từ khu trung tâm bước vào sân, tay cầm gói thuốc lào có lẽ mới mua ở ngoài quán. Ngoan vòng tay, lí nhí:
- Thưa thầy.
- À, Ngoan. Thầy Nam đang đợi em đấy.
- Dạ.– Ngoan nhìn vào –. Thầy Nam đang bận.
- Cứ vào đây.– Khoai nói –.
Ngoan đứng ngoài hàng hiên, hơi bối rối. Cô bé không biết thầy chủ nhiệm muốn nói chuyện gì, và có nên hỏi thầy về Táo quân không. Nam xếp lại cuốn vở, bước ra cửa:
- Ra chái đầu hồi đi Ngoan.
Khi thầy trò đã ngồi đối diện nhau, Ngoan hơi cúi đầu, chờ đợi.
- Ngoan! Chiều nay tôi muốn gặp em, xem thử có giúp được gì em không. Thi học kì một đến nơi rồi, vào đầu tuần sau, như em đã biết. Em học hơi sút, nay có khá hơn, đã năng động trở lại ở các tiết học của các môn. Thầy rất mừng. Phải phấn đấu thêm để kết quả thi học kì đạt ít ra như năm ngoái. Nhớ nhé.
- Dạ.– Ngoan ngẩng mặt –.
- Ngoan là lớp phó học tập, kiêm chi đội trưởng. Em có nhớ điều đó không? Phải gương mẫu, để điểm thi đua, chất lượng học tập của lớp khá hơn.
- Dạ.– Cô bé hơi ngượng, bỗng buồn hẳn –.
Nam nhìn ra ngoài nắng, ngập ngừng, rồi nói:
- Có một điều thầy rất băn khoăn. Thật ra, chuyện riêng của gia đình em, thầy không muốn xen vào. Nhưng em hiểu đó, trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm, cũng là anh chị phụ trách, cần phải kết hợp với gia đình trên mọi phương diện. Tất cả cũng vì các em.– Nam thấy anh hơi nặng nề, nên ngừng lại –. Ngoan, tại sao em gật đầu xác nhận, nguyên nhân sức học em giảm sút, do sự tìm hiểu giữa mẹ và ông Trà, rồi lại bảo là không phải?
Ngoan cúi đầu, nhìn mặt bàn.
- Em hãy trả lời cho thầy đi Ngoan.– Nam giục –.
Ngoan lúng túng:
- Thưa thầy …
- Em hãy tin ở thầy. Có nhiều vướng mắc, bất kì tuổi nào cũng rất khó tự giải quyết. Em biết không, ở tuổi tám mươi, người ta vẫn còn phải được tư vấn bởi bạn bè, các chuyên gia. Thầy cũng có lắm vấn đề vướng mắc về việc chọn ngành học hồi mới bước vào lứa tuổi sinh viên, suýt làm hỏng cả cuộc đời,– Nam thấy cần phải cụ thể hơn nữa với Ngoan –, nhưng … Này Ngoan! Phải cần làm rõ các vướng mắc để yên tâm, say mê học tập và tu dưỡng. Đừng cạn nghĩ, để rồi không cứu vãn được đâu.– Nam thấy anh còn trừu tượng quá, đâm bực mình với chính mình –.
Ngoan vẫn ngồi im lặng.
- Em không hiểu tôi nói gì sao hở Ngoan?– Nam nói, hơi cau mày, suy nghĩ tìm cách dẫn dắt mạch chuyện cho cô bé bộc bạch hết những vướng mắc, những gì giày vò cô bé –.
- Dạ, thưa thầy, em hiểu chứ. Nhưng …– Ngoan lại im lặng, ngước lên nhìn thầy giáo rồi lại cúi mặt –.
Sau một lúc trầm ngâm, anh thấy phải nói cho cô bé Ngoan hiểu, trải lòng ra là cần thiết, chẳng có gì đáng ngại.
- Để tôi kể truyện tình của tôi cho em nghe.– Nam cười –.
Ngoan mở tròn đôi mắt nhìn thầy. Cô bé hoàn toàn ngơ ngác.
- Đây là chuyện thầm kín, rất riêng tư.– Nam hư cấu như đang sáng tác truyện ngắn –. Trước khi ra trường, đi dạy học, tôi cũng đã có một người yêu. Cô ấy học cùng trường, sau tôi một khóa, nhưng khác khoa. Hai chúng tôi đã tìm hiểu nhau rất lâu trước khi yêu nhau. Khi yêu, lại vẫn tìm hiểu nhau để đi đến việc lập gia đình, thành chồng thành vợ. Em vẫn còn quá bé để hiểu việc người lớn, nhưng khó thay, việc người lớn lại ảnh hưởng đến em.– Nam bỗng đi thẳng vào chuyện –. Việc ông Trà và mẹ em tìm hiểu nhau có gì là lạ. Mẹ có quyền tái giá, nghĩa là có quyền lấy chồng lại … Tìm hiểu là việc bình thường …
Ngoan gục mặt xuống mặt bàn, khóc kinh hoàng, tiếng khóc rất lớn, rung cả hai vai. Khoai hốt hoảng chạy ra. Nam liền đưa tay ngăn lại. Khoai ngơ ngác rồi quay vào.
- Ngoan!– Nam đợi cô bé dịu lại –. Còn ông Trà, tôi đã tìm hiểu. Ông ấy đã có vợ con, nhưng họ đã di tản sang Mỹ. Chẳng bao giờ có thể gặp lại nhau.– Nam cố đùa –. Họ đã sang “bên kia thế giới”, hiểu như đã chết, trong bối cảnh lịch sử hiện nay.– Nam chợt hẫng vì thấy học trò anh không cười –. Ngoan này, ông ấy có quyền tục huyền, nghĩa là lấy vợ lại. Đó là chuyện bình thường tự nghìn xưa. Sao em lại buồn vì chuyện đó?
Ngoan lắc đầu như lăn đầu trên hai cườm tay:
- Không! Không thể như vậy!– Cô bé quyết liệt –.
Bỗng Ngoan như rít lên, với một nỗi khổ nhục ghê gớm:
- Như Táo quân là lăng loàn! Nội em vẫn dạy em, cả mẹ em cũng dạy em, phải “tiết hạnh khả phong”, phải “tứ đức, tam tòng”. Mẹ em không thể như vậy được. Em nhục lắm thầy ơi! Sao thầy còn nói thế! Ông nội, bà nội em, và cả chú Hải, sẽ bị nhục.– Ngẩng mặt lên, cô bé nói, rồi lại gục mặt xuống –.
Nam giật mình:
- Em có thật hiểu các chữ đó không?
Ngoan gật đầu:
- Thưa, dạ hiểu.– Giọng như hụt hơi vì mệt –.
- Em giải thích giúp thầy.– Nam ôn tồn kiểm tra học sinh của mình, sau một lúc –.
- Dạ, người nữ phải đức hạnh, cứng cỏi trước mọi cám dỗ, mọi quyền thế. “Tiết hạnh khả phong” là … là … tôn vinh tiết hạnh ạ, là … tiết nghĩa và hạnh kiểm tốt đẹp, chính chuyên, chung thủy ngay cả sau khi chồng qua đời …– Vì đang vận dụng óc suy nghĩ và theo thói quen khi được giáo viên phát vấn, cô bé ngỡ đang ngồi trong lớp –. Dạ … và “tứ đức” là công, dung, ngôn, hạnh. Còn “tam tòng” là nhỏ ở với cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết chỉ thờ chồng, nuôi con chứ không được lấy chồng khác. Thưa thầy … nội em bảo vậy.
Nam trắc nghiệm lại:
- Em không cho mẹ Xinh lấy dượng Trà sao?
- Không, thưa thầy.– Ngoan dứt khoát –.
Nam mỉm cười, bỗng thấy cảm mến Ngoan vô cùng:
- Em đúng là cán bộ lớp!
Ngoan nhoẻn miệng cười, gạt nước mắt còn đọng lại.
Nam đã buộc cô bé xác nhận nguyên nhân được rồi. Nam cố giấu nỗi mừng vì chắc chắn hiểu rõ cô bé, cả hai ông bà nội, và đã đưa được Ngoan vào trọng tâm. Nam cũng rõ đây là vấn đề cũ rích từ thời Tự Lực văn đoàn. Chiều nay là buổi chiều gần cuối năm một ngàn chín trăm bảy mươi tám, chứ không phải của “Lạnh lùng” (29) ở những năm của thập niên ba mươi thế kỉ này. Nam tự nhắc mình như vậy.
Nam cười:
- Biết đâu em sẽ sung túc, hạnh phúc hơn. Dượng Trà sẽ là người cha thứ hai rất tốt của em.
- Em tởm ông Trà và mẹ em.– Ngoan bỗng cứng rắn hẳn –.
Nam hơi giật mình bởi chữ “tởm” quá nặng nề, hơi vô lễ của Ngoan. Cô bé mười hai tuổi này xem ra đã căm hận sâu sắc.
- Tại sao lại “tởm”? Em dùng từ có chính xác không?
Ngoan bình tĩnh:
- Thưa thầy, đúng ạ.
Nam cứ muốn cô bé nói rõ, nhưng ngượng. Anh suy nghĩ rồi nói:
- Lúc nào người ta có cảm giác tởm? Đấy là khi đứng trước cái gì gớm guốc, thối tha, hoặc vô đạo đức, trái với văn hóa Việt Nam.– Nam lúng túng bởi cứ phải dùng các từ trừu tượng. Chẳng đặng đừng, Nam nói rõ –. Ông Trà và mẹ Xinh đã hôn hít nhau hay ăn nằm với nhau sao?– Nam nghiêm nét mặt khi nói –.
Cô bé ấp úng rồi thưa:
- Dạ, cả hai.– Ngoan gục mặt xuống hai cườm tay –.
Nhưng đã quá ngưỡng cảm xúc để khóc, cô bé như hóa đá!
Nam hốt hoảng thật sự. Anh hỏi khẽ:
- Thật không? Chính mắt em thấy?
- Chính mắt em đã thấy vài lần.– Giọng Ngoan lạnh tanh –.
- Thế thì không thể gọi là “tìm hiểu” nữa. Em tởm là đúng. Hôn hít nhau cũng đã là vô đạo đức. Em phải nhớ rõ điều này. Nhưng thôi. Cái chính là em. Em phải cố gắng học tập tu dưỡng cho dù người lớn đáng tởm. Con cái hơn cha mẹ là nhà có phúc.
Ngoan nhìn thầy, từ trạng thái vui mừng vì thầy nhất trí rằng Ngoan dùng chữ tởm là đúng, lại phải xịu mặt ngay với sự chán ngán, thất vọng bởi điều thầy bảo liền sau đó.
Tất cả khổ đau, tủi nhục từ nỗi tan vỡ hình ảnh về mẹ, Ngoan đã trút ra hết rồi. Cô bé bỗng trống rỗng, sững sờ. Thì đành vậy, câu tục ngữ thầy giáo mới nhắc, “con hơn cha [mẹ] là nhà có phúc”, vẫn là lời động viên có lí, cả về mặt đức hạnh. Trông Ngoan như một người già, một triết nhân buồn trơ, lúc này.
- Em định hỏi thầy và cô Lộc Biếc dạy ngữ văn, tại sao lại thờ Táo quân ạ?– Cô bé lại hỏi thầy giáo chủ nhiệm, sau một lúc im lặng –.
Nam hơi tự ái nghề nghiệp:
- Sao lại có cô Lộc Biếc ở đây? Thôi được, nếu cần, tôi sẽ nhờ cô Lộc Biếc, vì chuyên môn của cô là ngữ văn, trong đó có văn học, tư tưởng dân gian. Có điều, cô ấy đi họp Chi đoàn Thanh niên Cộng sản ở phòng học của lớp chín rồi.– Nam chỉ tay vào bảng công tác treo ở vách gỗ đầu hồi–.
Anh ngẫm nghĩ:
- Nhưng tôi có thể giải mã Táo quân giúp em. Em lắng nghe nhé. Thế này, đó là cả một bi kịch đau thương. Một người đàn bà đã có chồng, do hoàn cảnh, chồng phải một đường, vợ phải một ngả. Người đàn bà tái giá, cũng do hoàn cảnh riêng mà phải vậy. Gặp lại chồng cũ, tình xưa sống lại. Tất nhiên chỉ mời cơm nhau thôi. Và bi kịch xảy ra là bởi còn lưu luyến tình xưa nghĩa cũ. Kết thúc thế nào, Ngoan biết không? Cả ba người đều bị chết cháy trong đống rơm. Tuy vậy, có một điều rất quái lạ là: họ được nhà Trời phong làm Táo quân, nghĩa là Vua bếp. Tại sao như vậy? Cái kết thúc cả ba bị chết cháy là một lời cảnh cáo, răn dạy: không thể hai chồng một vợ được; đừng nên lưu luyến tình cũ nghĩa xưa, vì đã chia tay, dù do hoàn cảnh nào, cũng phải dứt tình khi có duyên mới. Rất rạch ròi. Em biết không, họ đã bị nung cháy bởi ngọn lửa trừng phạt đến muôn đời! Mỗi ngày họ bị tra tấn đến hai hoặc ba lần. Đó là một hình phạt khủng khiếp. Các bà nội trợ, các ông cấp dưỡng, mọi người ăn cơm nấu chín, uống nước đun sôi được nhắc nhở hàng ngày, hàng bữa.– Nam cười –. Ngoan thấy có kinh khủng và sâu sắc không? Vua bếp là tín ngưỡng thứ ba trong gia đình đó!
Ngoan sung sướng gật đầu lia lịa, cười cả mắt lẫn môi, nom rạng rỡ hẳn:
- Dạ, hay quá. Phải thế chứ! Em cảm ơn thầy.
- Nhưng tại sao lại được phong làm Táo quân, tam vị nhất thể, ba người chỉ là một người?– Nam mỉm cười hỏi –.
- Tại vì họ khổ quá, bị nung cháy bởi lửa trừng phạt đến muôn đời, thưa thầy.
- Một lẽ là vậy. Em suy nghĩ thêm đi.
Nam nhìn ra chuồng thỏ. Những cây sắn đã trổ lá xanh quanh chuồng. Qua những kẽ hở, Nam thấy các chú thỏ trắng, xám đang đùa nhau. Nam cũng không ngờ chiều nay lại phải nặn óc giải mã Vua bếp. Anh đang ngẫm nghĩ lại, bởi lắm khi phải vừa nói, vừa nghĩ tiếp. Lâu nay, Nam có nghĩ gì về Táo quân đâu, và cũng chẳng đọc ở đâu những gì anh vừa suy luận, vừa nói với Ngoan. Nam cũng mừng, bởi có lắm điều trực nhận hơi mơ hồ rồi mới đến được mức có thể gọi là thấu hiểu chính xác, sâu sắc, không khiên cưỡng, không tùy tiện. Nam cũng không muốn anh là cụ đồ nho cổ hủ.
- Vì sao họ vừa bị trừng phạt đến muôn đời, vừa được phong làm Vua bếp muôn đời?– Thầy Nam vừa hỏi vừa gợi ý để Ngoan trả lời, và anh hỏi tiếp –. Em có biết ngày ông Táo lên Trời không? Để làm gì?
- Vì họ khổ nhục đến thế! Họ bị nung lửa, bị bôi nhọ, lấm tro mãi mãi.– Ngoan chưa tìm được ý mới, chỉ phát triển thêm ý đã nói.– Và ngày ông Táo lên trời báo cáo là hai mươi ba tháng chạp.
- Lẽ ra người ta có thể quên đi ba vị ấy, cho dẫu họ đáng bị trừng phạt. Nhưng biến họ thành điển tích khổ đau đời đời như thế, cũng oan cho họ. Họ chỉ đáng thương thôi, nếu nghĩ cho cùng. Phong họ làm vua, tuy là Vua bếp, của mỗi nhà, mỗi nước, của cả thế giới, là an ủi họ, “trọng dụng” họ. Nhà Trời cũng cần hiểu rõ góc nhà, xó bếp trần gian (nồi cơm, niêu cá, sơn hào hải vị, nói chung là miếng ăn, bữa ăn, thể hiện rất nhiều điều). Đó là sự bù đắp, sự trọng dụng bên cạnh sự lợi dụng họ để răn đe, cảnh cáo nhân gian. Đó là bài học quá đỗi trực quan sinh động.
Nam lại ngẫm nghĩ. Anh hơi ngập ngừng:
- Dẫu sao, đó cũng chỉ là truyện cổ tích, là tín ngưỡng dân gian có ý nghĩa luân lí, xã hội. Thôi nhé. Bây giờ em phải nhớ rằng, mẹ có thể tái giá. Em có thể vì vậy mà bất hạnh hơn hoặc may mắn hơn … Có ba khả năng xảy ra, cho em, trong tương lai. Mẹ có quyền chọn lựa. Chọn lựa nào cũng có mất mát, được cái này, mất cái kia, khó trọn vẹn cả mọi điều. Một là, hạnh phúc cho mẹ, có thể là bất hạnh cho em. Hai là, bất hạnh của mẹ, có thể là hạnh phúc cho em. Bất hạnh của mẹ là mẹ không tái giá … Và thầy mong sẽ diễn ra khả năng thứ ba cho em và mẹ Xinh: cả em lẫn mẹ đều không ai bất hạnh cả. Em có thể được yêu thương, chăm sóc, bảo ban bởi ông Trà, nếu ông ấy là con người tốt, biết điều. Nhưng “tìm hiểu” kiểu ông Trà, em tởm là phải. Đó là sự bất chính, vô luân!– Nam ngừng lại, giọng bỗng buồn buồn –.Chỉ nhớ một điều thôi, Ngoan ạ: phải cố gắng học tập, tu dưỡng để nên người. Hãy phấn đấu, nỗ lực, để lớp bảy, chi đội Sống Như Anh được tiến bộ, đạt điểm thi đua cao. Nhớ nhé.
Ngoan lại úp mặt lên bàn, vẫn không muốn mẹ lại lấy chồng!
- Đừng úp mặt như thế, Ngoan! Bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải ngẩng mặt, nhìn về tương lai, – Nam nói –, và đừng khóc. Không bao giờ khóc. Chỉ có quyền khóc vì yêu thương thôi.
Ngoan ngẩng mặt, chống hai khuỷu tay, bóp trán. Thầy giáo Nam nhìn ra sân chiều đang rực nắng. Nam không biết nói gì nữa. Thật tâm, anh thấy hình tượng người mẹ trẻ góa chồng, không tơ tưởng tư tình, không tái giá, nguyện vẫn ở vậy đến già, nguyện suốt đời thay chồng hi sinh cho cha mẹ chồng, nhất là cho con rồi cho cháu, mãi mãi là hình tượng thủy chung, hi sinh cao đẹp nhất. Đó đâu phải chỉ là cái đẹp cổ điển của văn hiến quá khứ và chỉ là giá trị quá khứ! Thủy chung, hi sinh mãi mãi vẫn là những giá trị đáng kính trọng và mãi mãi còn thuộc về những thời đại trong tương lai. Nhưng sự thủy chung, hi sinh ấy phải xuất phát từ ý thức tự nguyện. Không ai có quyền bắt buộc người phụ nữ phải thủy chung tuyệt đối cả trong tâm tưởng lẫn trong đời sống thực tế với người chồng đã chết. Không ai có thể, cho dẫu bằng “áp lực” của phong tục tốt đẹp (“tiết hạnh khả phong”), bắt buộc người phụ nữ phải hoàn toàn hi sinh, quên mình tuyệt đối, thay chồng phụng dưỡng cha mẹ chồng và nuôi dạy con cái. Đúng vậy, thủy chung như thế, hi sinh như thế phải xuất phát từ ý thức và nhất là từ tấm lòng tự nguyện. Và đúng vậy, thủy chung, hi sinh như thế là một dạng hạnh phúc, hạnh phúc cao cả và cao quý nhất. Có điều, Nam không nói gì nữa. Hai thầy trò ngồi trong im lặng. Nam thấy cô bé học trò mới mười hai tuổi đầu của anh quá trĩu nặng âu lo, buồn khổ.
Ngoan chợt hỏi về câu ca dao với niềm chán chường:
- Sao lại “vững như kiềng ba chân”, thưa thầy?
- Đó là thế chân vạc, ba chân. Người ta có thể khai thác một sự vật với nhiều ý nghĩa. Tùy ngữ cảnh! Câu đó không dính líu gì với ba vị Táo quân cả.
Ngoan xin phép ra về, sau khi nghe thầy Nam giải thích cặn kẽ với nhiều ví dụ cụ thể.
Chiếc nón lá của mẹ hơi quá lớn so với vóc dáng của Ngoan, khiến Ngoan càng bé bỏng hơn. Nam ngồi im lặng nhìn theo cô bé học trò lớp bảy của mình, lòng bỗng bâng khuâng buồn. Chuyện người lớn, Ngoan còn quá sớm để hiểu chăng? Nhưng biết làm thế nào được! Bất hạnh này thường dẫn đến bất hạnh khác. Trẻ thơ mồ côi, sớm khôn là vì vậy chăng? Trái tim bé bỏng của Ngoan làm sao chịu thấu nỗi khổ đau và âu lo đến thế. Đó còn chưa cộng thêm nỗi áo cơm! Ánh nắng chiều bỗng làm cay mắt thầy giáo Nam.
Nhìn mông lung ra vạt đất trồng khoai lang đã lắm cỏ tranh, bên kia lối nhỏ trước sân nhà, Nam cũng nhận ra, anh vẫn còn khá lúng túng khi tự xưng với học trò. Dẫu sao, chữ “THẦY” cao quý quá, anh cảm thấy chưa thể xứng đáng, còn phải học tập, rèn luyện, tu dưỡng nhiều hơn, nhiều hơn nữa. Nam thở dài.

22

Vừa làm cỏ cho dâu và khoai lang với học sinh lớp mình, Nam vừa trông chừng các em. Trường không có giáo viên kĩ thuật nông nghiệp, tài liệu về trồng dâu nuôi tằm, về khoai lang không biết tìm đâu. Nam hơi buồn cười cho mình là vừa học ở các em, vừa soạn giáo án lao động. Các giáo viên ở đây đa số là dân huyện lị, thành phố, chỉ có Khoai là rành ruộng đất. Có điều Khoai lại dạy quá nhiều tiết toán. Nam thấy giáo án nào nào mục đích, yêu cầu cũng giống nhau ở sự nghèo nàn, rỗng tuếch, chỉ khi thầy cùng trò thực hiện, trong các tiết dạy và học, hướng dẫn và thực hành, mục đích, yêu cầu ấy mới thật sự sinh động. Và mặc dù có khó khăn, nhưng rồi đâu đấy vẫn ổn, nhờ giáo viên hơn học trò cái đầu. Nam mỉm cười, cái chính là giáo dục chứ không phải là kĩ thuật, năng suất. Đó là tình cảm với người lao động, hiểu giá trị lao động chân tay, biết tạo cảnh quan với màu xanh cây lá cho trường học, thôn xóm. Về kĩ thuật, năng suất, anh quan sát, hỏi kinh nghiệm của các em và vài phụ huynh rồi khái quát lên, hơi liều lĩnh, nhưng hẳn không sai sót. Nam không bằng lòng, vẫn áy náy, song xem ra chẳng có giáo viên nào vượt qua điều kiện hạn chế. Nam tự biết giới hạn mình lại trong lĩnh vực này để đầu tư vào vấn đề văn hóa chữ cho các em.
Nam nhìn quanh, thỉnh thoảng anh lại dừng xà bất, bỏ mạch suy nghĩ tản mạn để quan sát các em. Nam rất mừng khi thấy Ngoan vẫn cố vui vẻ với các bạn …
Nam luôn để ý đến các học sinh cần lưu tâm …
Học sinh ở đây, buổi chiều phải giúp cha mẹ, nên các em lao động nông nghiệp quá giỏi. Các em vẫn dẻo dai trong khi Nam đã thấy mệt. Nam vẫn thường bảo các em chỉ làm vừa sức, tuy nhiên do thói quen, chưa được nửa thời lượng của giáo án, các em đã làm xong!
Hoán thổi một hồi còi dài. Học sinh các lớp đang làm cỏ, vội xếp hàng theo đội hình, tập thể dục giữa giờ. Các giáo viên cũng tập với các em theo sự điều khiển của Ngày, Liên chi đội trưởng.
- Các em lưu ý!– Hoán nói lớn –. Lao động làm cỏ, thao tác không vận động toàn thân, các cơ bắp có cơ vận động, có cơ không vận động, do đó cần tập thể dục để cân bằng các cơ, điều hòa nhịp thở. Các em nhớ chưa?
- Dạ nhớ!– Tiếng trả lời của các em như sấm rền trên sân trường –.
Ngày hô lớn:
- Tan hàng! Khỏe!
Nam vẫn để ý đến cô bé Ngoan lúc tập thể dục …
Anh gọi K’Bẻo lại.
Đôi mắt xanh lam dưới hàng lông mi bạch kim của K’Bẻo dễ bị chói nắng. K’Bẻo bước đến trước mặt thầy giáo Nam, chớp chớp mắt.
- K’Bẻo này! Em cuốc cỏ vừa sức thôi.– Nam mỉm cười –. Như những buổi lao động chân tay khác, em được phép nghỉ nửa buổi sau.
Nam quàng vai K’Bẻo, bước đến cửa lớp bảy. Nam nói:
- Cố gắng tuần sau, còn ba ngày nữa thôi, thi học kì cho tốt nhé.
- Dạ, em vẫn cố nhiều lắm.– K’Bẻo thưa–.
Nam ngoắt Ka Tem và K’Bri. Hai em bước tới vòng tay chào.
- Ka Tem, K’Bri cầm xà bất cuốc cỏ, xớt cỏ rất khỏe, có kĩ thuật lắm. Buổi này chắc được điểm cao rồi đấy.
Ka Tem, K’Bri nhoẻn miệng cười.
- Cố gắng thi cho tốt nhé. Hai em vốn học khá trong lớp. Phải học thật nhiều nữa. Và bỏ ý tưởng học đến lớp chín là nghỉ đi nhé.
K’Bri thật thà:
- Học làm chi cho nhiều thầy!
Nam vờ nghiêm mặt, nhưng rất chân thành:
- Em cứ đùa! Như thầy K’Đa làm giáo viên, thầy K’Đăng tập kết, lớn tuổi vẫn học đại học ở Hà Nội, bây giờ làm lãnh đạo ngành giáo dục huyện mình đó. Rồi những ai như thầy K’Đăng, còn có thể làm tổng bí thư Đảng, chủ tịch Hội đồng Nhà nước … Tổ quốc Việt Nam là Tổ quốc chung của người Thượng lẫn người Kinh mà! K’Bri có triển vọng lắm!
K’Bri mỉm cười:
- Em thích thành kĩ sư kia. Nhưng khó quá thầy!
- Vậy mới phải chứ. Phải có cao vọng như vậy. Không khó đâu.
- Nhà em nghèo lắm thầy.– Ka Tem thưa –.
- Ka Tem cũng muốn thành kĩ sư à?– Nam xoa đầu em –.
- Dạ.– Ka Tem chợt hơi chạnh buồn –.
- Thầy K’Đa, thầy K’Đăng sẽ gửi các em đi học nội trú, tiền Nhà nước nuôi ăn học mà. Vấn đề là có chí, có cố gắng.– Nam nói –.
- Nhưng không ai làm cái rẫy ở nhà!– K’Bẻo bỗng nói thay –.
- Cứ có chí, rồi khắc phục được hết. Mà kĩ sư ngành gì hở Ka Tem, K’Bri, và K’Bẻo nữa?
- Thủy lợi thầy.– K’Bri đáp –.
Nam cười cảm động:
- Đúng rồi. Tây Nguyên đất tốt song khan nước vào mùa khô. Địa danh nào cũng bắt đầu bằng từ có nghĩa là nước: Đạ, I-a (Ia) … Các buôn làng thường du canh du cư ven suối, ven sông. Đúng không?
Ka Tem chớp chớp đôi mắt đen nhánh. Nam thấy tóc của Ka Tem đúng là tóc mây, sợi cứng và mượt, tóc K’Bri lại xoăn, tuy cũng đen bóng. K’Bri ngẫm nghĩ rồi gật mái tóc Á Phi:
- Dạ. Chắc đúng rồi đó thầy. Không hiểu sao em rất thích làm thủy lợi, Ka Tem cũng thế. Có lẽ vì vậy đó thầy.
- Ừ, giỏi lắm.– Nam nói khi nghe tiếng kẻng –. Thôi, hai em ra làm tiếp khoảng nửa giờ nữa. K’Bẻo ra đứng chơi nhé.
Nam lại cuốc đất vun luống thêm, sau khi đã xớt cỏ cùng các em. Khối lượng công việc gần như xong. Nam nghe mồ hôi lại ướt trên lưng dưới ánh nắng. Quai nón lá bằng vải của Trăng Thu anh đã tháo ra để cất, thay vào là sợi dây bẹ chuối, đang ngưa ngứa dưới cằm Nam. Nón lá anh mượn hình như tỏa ra mùi hương con gái thơm thơm dễ chịu. Nam mỉm cười, bâng khuâng.
Xong việc được giao, các em lớp Nam đang chống cuốc, xà bất đứng kháo chuyện. Nam đề nghị K’Bri, lớp phó phụ trách lao động, đi nghiệm thu một vòng, xem có gốc dâu nào bị xà bất phang nhằm không, và đưa tay giở cả các ngọn khoai để xem còn cỏ không.
Nam nhắc K‘Bri tập họp lớp ở phòng học rồi điều khiển lớp tiến hành rút kinh nghiệm luôn thể.
Theo nền nếp tự quản Nam đã hình thành cho các em, đặc biệt cho K’Bri, Nam ngồi tì tay lên bàn nhìn K’Bri làm nhiệm vụ với chức năng của em.
K’Bri đứng trước lớp, hỏi:
- Về an toàn lao động, có bạn nào bị trầy, xước gì không?
- Không.– Cả lớp đáp –.
- Có bạn nào làm ẩu, không đúng yêu cầu kĩ thuật không?
- Nghiệm thu rồi mà! Không có.– Một số em đáp –.
- Bạn nào còn nhớ ý nghĩa giáo dục thầy phổ biến đầu buổi?
Một em đứng dậy:
- Như mọi lần, hỏi hoài!
K’Bri cáu:
- Tôi chưa cho phép bạn đứng dậy phát biểu mà! Sao lại như mọi lần được! Câu ca dao lần này bạn thuộc không?
Hóa ra không ai thuộc hết, chỉ K’Bri còn nhớ.
Cuối cùng, K’Bri tổng kết khá bài bản, nhưng em không dám nhận xét cụ thể vì tính hay cả nể. Nam đành nhờ Ngày nhận xét bổ sung. Nam nhắc lại câu ca dao ngợi ca đất và mồ hôi, đồng thời thể hiện khát vọng cơ giới hóa.
Bỗng nhiên Nam thấy K’Bẻo quay lại khi các bạn đã vác xà bất, cuốc ra về trong tiếng nói cười. Nam hỏi:
- Sao vậy? Có gì không K’Bẻo?
K’Bẻo chớp chớp mắt. Giọt nước mắt ứa ra dưới khóe mắt xanh lam. Nam vuốt mái tóc bạch kim óng mượt của em.
- Làm sao lành bệnh thầy? Em cũng muốn thành kĩ sư như Ka Tem, K’Bri, nhưng …
Nam không biết nói sao, anh đứng lặng một lúc, cầm bàn tay trắng hồng phơn phớt lông măng vàng hoe của K’Bẻo.
- Cố học đi em. Biết đâu sẽ có thuốc chữa lành. Cách đây vài chục năm, bệnh hủi như của Hàn Mặc Tử là đành bó tay, bây giờ đã chữa khỏi. Các nhà bác học giỏi lắm, họ sẽ nghiên cứu, chế được thuốc cho em.
K’bẻo mở sáng đôi mắt châu Âu rất mơ màng:
- Thật không thầy?
- Thật chứ. Trước hết, phải biết hi vọng có cơ sở khoa học. Hi vọng cũng là thuốc giúp mình chặn bớt bệnh.
Nam nghe tay K’Bẻo run trong tay anh.
- Về đi, K’Bẻo. Các bạn đang chờ. Phải biết hi vọng, nghe K’Bẻo.– Nam đưa K’Bẻo ra tận cửa lớp –.
- Dạ. Em hi vọng … Vâng, hi vọng …– K’Bẻo vừa đi vừa nói lắp bắp, như nói một mình –.
Nam thấy thương chú bé K’Bẻo quá. Anh đã qua C, buôn B’Kẽh một lần, thấy gia đình K’Bẻo quá cơ cực. Với bệnh bạch tạng, không biết K’Bẻo còn đủ sức khỏe để học trong hoàn cảnh gia đình như thế không. Chẳng lẽ hi vọng là phương thuốc không mất tiền duy nhất của người nghèo và bệnh sao? Nhưng bệnh màu da, đã có thuốc nào đâu!
Nam nhìn theo K’Bẻo, rồi phóng tầm mắt ra xa theo hút cô bé Ngoan. Ngoan đang cùng các bạn đi về khu trung tâm.
Mấy hôm nay, anh cũng để ý một cách tế nhị về thái độ học tập trong lớp cũng như cách chơi đùa với bạn lúc ra chơi của Ngoan. Nam thấy cô bé đang cố vượt lên nỗi đau, niềm tan vỡ hình ảnh người mẹ của mình. Thầy giáo Nam chỉ nhìn, mỉm cười động viên Ngoan. Anh vận dụng bài học tâm lí giáo dục, cố tìm cách để biểu dương, khen ngợi Ngoan trước lớp, để Ngoan thấy sự mặc cảm trong tâm hồn đã bị đánh tan. Ngoan mặc cảm về mẹ, nên rất sợ bạn bè biết. Chính điều này khiến Ngoan chán ngán, lo âu khi đến lớp. Nam muốn cô bé Ngoan hiểu ngầm rằng, thầy Nam hiểu hết, có điều mẹ Xinh sẽ được cứu, và Ngoan không có lỗi gì trong chuyện này. Khi giảng bài sử vào sáng hôm qua, Nam có liên hệ đến câu chuyện “Mục Kiền Liên cứu mẹ”, vốn là nội dung của Ngày Vu lan (rằm tháng bảy nguyệt lịch). Nam chỉ phỏng tác ngắn gọn. Dưới ánh sáng khoa học, anh phân tích như chuyện cổ tích, ngầm động viên Ngoan. Anh tin Ngoan sẽ tích cực, duy xã hội hơn. Nam muốn chặn đứng dư luận của học trò, trước khi chuyện cô Xinh vỡ lỡ, một cách gián tiếp. Có lẽ hơn ai hết, Ngoan hiểu điều này, tuy chỉ mới mười hai tuổi. Không ai khác, Nam biết Nam với các thầy cô giáo sẽ là điểm tựa cho cô bé Ngoan.
Nam vừa suy nghĩ vừa bước lên nhà tập thể.
Nam tự bảo, dẫu sao, cũng chưa nên nói với bất kì ai điều này, trước khi tự nó vỡ lỡ. Nam cũng tự ngẫm, buổi lao động chân tay sáng nay, anh đã hiểu thêm gì về học trò anh. Anh vẫn tin, qua mỗi nhát xà bất, mỗi giọt mồ hôi, mỗi động tác nâng lật ngọn khoai, mỗi tiếng cười, tiếng nói của các em, anh hiểu từng em một cách toàn diện hơn. Liệu mình có giúp được gì thêm cho học sinh không?– Nam tự hỏi –. K’Bẻo ơi, Ngoan ơi, tôi có đủ trình độ, nhiệt tâm để làm điểm tựa cho các em không?
Nam ngẩng đầu, nhìn thẳng và bước trong nắng. Chiếc nón lá của Trăng Thu thoang thoảng hương con gái. Nam lại mỉm cười, ghé vào ảng nước, rửa tay chân một cách hết sức dè xẻn nước. Nam mỉm cười chào Lộc Biếc ở căn phòng nữ, về lục trong hộc bàn quai nón bằng vải lụa, thay vào, rồi mang nón lá trả cho Trăng Thu. Trăng Thu mỉm cười, đâu biết hương con gái ngai ngái khiến ngây ngất, bâng khuâng lòng người thế nào! Một thoáng đa cảm thường tình thoảng qua tâm hồn Nam như chút rung động tình cờ theo hương hoa bay trong mơ hồ.

23

Học sinh đã thi học kì một được vài môn. Sáng thứ năm này các em được nghỉ một buổi giáo dục lao động sản xuất. Nam định đến nhà anh Trà thêm một lần nữa và chỉ đi một mình, nhưng Hoán, Khoai, Huyện rồi cả Lộc Biếc, Cam Ly cũng thích đi chơi. Nam thấy cũng chưa nên nói chuyện đời tư của người khác làm gì, vì nào đã quen thân, vả lại, đi cả nhóm càng vui.
Đây là lần thứ ba nhóm giáo viên trẻ đến nhà và quán của anh Trà. Nam ghé vào quán bà Tặng mua một gói thuốc lá 475 (30).
- Nam ơi,– Khoai nói –, hôm qua có cô Sương Ngọt nào dưới huyện Thủy gửi thư cho ông đó?– Khoai trêu khi họ cùng bước –.
- Chắc người yêu dấu!– Cam Ly cười khúc khích –.
Nam nhìn Cam Ly với ánh mắt nheo lại:
- Được vậy thì quá tốt, nhưng rất tiếc, chỉ là bạn.– Nam quay qua nói với Khoai –. Ông không nhớ Sương Ngọt khoa Anh văn sao, người Quảng Trị mình nhưng lại cùng xóm ở Huế với mình đó? Đã có lần Khoai với mình ghé nhà Sương Ngọt mà.
- Cô ấy cũng dạy cấp cơ sở à? Dưới huyện Thủy làm gì có trường trung học.– Khoai nói –.
- Sương Ngọt không được bổ nhiệm, vì bố là trung tá ngụy đang bị học tập cải tạo tập trung, đâu tận ngoài Bắc.
Họ đi ngang qua nhà cô giáo Xinh. Nắng buổi sáng đã lên khá cao, bóng sáu người ngã đậm sau gót chân. Nam kéo chiếc mũ kép pi về phía trước trán. Không biết nói sao, khi cả nhóm nghe Lộc Biếc cảm thán:
- Đời còn nhiều chuyện buồn lòng thật!
Nam ngậm ngùi sau một lúc:
- Sương Ngọt theo gia đình vào vùng kinh tế mới dưới ấy. Cô ấy gửi thư cho mình theo địa chỉ tình cờ biết được, và cũng vì tình cờ đọc được một bài thơ của mình trên báo. Bây giờ, cô ấy lại chuyển qua nghiên cứu kinh sách Phật giáo.
- Thoát tục lụy chăng?– Lộc Biếc lại buột miệng –.
- Không rõ.– Nam đáp –.
- Lẽ ra cánh cửa vào đời, Nhà nước đừng đóng lại với bất kì ai. Cửa khép trước lối đi của anh, anh đi lui hay bay lên trời? Nam trả lời thử.– Lộc Biếc cười buồn –.
- Em sẽ chui xuống đất.– Cam Ly bao giờ cũng thích nói nghịch –. Chắc thầy Nam sẽ húc đầu vào?
- Không dám húc đâu, sợ vỡ sọ.– Nam lắc đầu –. Mình cũng chui xuống đất làm dế mèn, nhìn trăng gáy ran cho đỡ buồn.
Lộc Biếc quay mặt qua Nam:
- Tới nhà anh Trà-Rơ-mác rồi kia! Mà này, thử hỏi đùa anh Nam cho biết, chứ em hiểu hết. Em có đọc tập bản thảo thơ anh. Những bài đầu sau tháng tư bảy lăm rất hòa nhập, rất hào khí, nhưng sau đó lại có bài như nghẹn lại. Có lẽ nghẹn lại vì thấy cánh cửa đời không rộng mở như vội tưởng.
Nam lắc đầu lia lịa:
- Thôi. Đừng nói chuyện ấy nữa. Tôi đã quên cái tôi của mình lâu rồi! Cái tôi trữ tình trong thơ là một hình tượng hư cấu. Tôi là ca sĩ lao động bằng chữ của trái tim mình, hát tiếng đời bằng trăn trở, chiêm nghiệm của mình trên những dòng nhạc của mình về đời … Xin chấm dứt chuyện này … Nhà anh Trà đã kia rồi!
- Sao chẳng nói “trái tim tôi thuộc về nhân dân” cho luôn!– Lộc Biếc cười khanh khách – Vĩ đại thay! Anh Khoai cũng thế. Tâm huyết nhân dân cuộn chảy trong thơ văn của hai Người!
- Thôi, cho tôi xin được tha!– Khoai nói –. Lớn lao quá!
Anh Trà đang lúi húi sửa vành xe đạp bị tráng trên cai phuộc cắm ngược vào khúc gỗ, chợt thấy nhóm giáo viên, đứng dậy phủi hai tay vào nhau với nụ cười giữa các sợi râu nhu nhú.
- Xin chào các bạn . Ồ, không có gì vui hơn!
Anh Trà kéo hai chiếc ghế dài mời khách ngồi. Hơi bị bất ngờ, anh Trà sau phút đon đả bỗng như ngẫm nghĩ rồi nói:
- Các bạn uống cà phê nhé.– Vẫn với giọng Bắc khá nặng, hơi ngọng ở một vài âm của một địa phương nào ngoài ấy –. Tôi mới ra Đa Công, ghé Đa Phát mua ở chỗ hàng xóm hồi xưa một ít, ngon tuyệt. Nhưng các bạn phải đợi mươi phút để đun nước. Ở xứ lạnh mà chẳng có cái bình thủy nào cả!– Anh cười giòn –.
- Nhất trí cao.– Huyện nói –. Tôi sẽ đi đun nước với anh. Các bạn này coi quán giúp.
- Lâu quá rồi chưa uống cà phê.– Khoai nói khi hai người đã khuất sau vạt dâu để vào nhà –.
- Ông Trà này cũng đặc biệt thật, chẳng có ai ở cùng, một mình thui thủi vậy thôi.– Hoán nói –.
Nam cười thầm trong bụng. Con người thế đấy! Nếu không chủ nhiệm lớp Ngoan, không biết chuyện vụng trộm kia, Nam sẽ rất quý trọng anh Trà. Quý trọng gấp ba lần là khác, giá Nam chỉ biết anh Trà với cung cách rất trí thức, như một nhà ẩn cư, bất phùng thời.
- Khúc Văn cũng mới gửi thư cho em.– Lộc Biếc mới dịu lại sau khi đi ngoài nắng vào, bỗng nói, với gương mặt hồng lên rất xinh đẹp –. Khúc Văn gửi lời thăm anh Huyện và hai anh …
- Vậy sao! Khúc Văn dẫu sao cũng còn may mắn …– Khoai tế nhị, không nói hết câu –.
- Khúc Văn than như bọng. Ông hiệu trưởng ở đó o ép giáo viên rất ghê. Nguyên văn trong thư : “rất phát xít”. Đó là trường tiên tiến, trường trọng điểm. Cũng nguyên văn trong thư: “Hiệu trưởng “giũa” hết mọi cạnh, mọi khía của cá tính giáo viên, thậm chí rèn bằng “búa tạ””.– Lộc Biếc cười khanh khách –. Khúc Văn kể một chuyện thế này. Có một cô giáo ngoại ngữ rất thật thà. Sút đinh quai guốc, chẳng biết mượn kìm búa ở đâu, cô hỏi một giáo viên nam. Giáo viên nam này chỉ lên hiệu trưởng. Cô ấy lên hiệu trưởng hỏi thật. Hiệu trưởng gầm: “Phải kìm, phải búa, để rèn nhau. Cô trêu tôi à?!”. Cô giáo ấy hoảng hồn xin lỗi.– Tiếng cười Lộc Biếc giòn tan trong tiếng cười của bốn người –. Hiệu trưởng vốn đã bị đặt hỗn danh là Búa Kìm Giũa!
- Có nhiều ông hiệu trưởng cũng ghê thật!– Hoán nói –. May là bạo chúa bao giờ cũng ít. Tôi cũng có nghe “danh” ông ấy, người Hà Nội chi viện đấy. Đâu cũng có người này kẻ nọ.
- Bởi thế mới có chuyện Trạng Quỳnh chơi khăm.– Khoai cười khẩy –.
- Tiếng cười là vũ khí của kẻ mạnh hay kẻ yếu nhỉ?– Lộc Biếc buông một câu hỏi –. Nếu giũa hết mọi góc cạnh cá tính, liệu tất cả có trở thành đồ vật được sản xuất hàng loạt không, có còn thi sĩ không, hở anh Khoai?
- đừng đuổi thơ tôi vì một chút chiều tà ngả bóng
hãy kiên lòng sẽ thấy nắng mai lên.

Ông thi sĩ lấy họ Chăm này cũng là người Quảng Trị – Khoai không trả lời, nhưng đọc hai câu thơ và lại hỏi –. “Chiều tà ngả bóng” cũng là cá tính sáng tạo? Có người cảm quan bẩm sinh vốn thiên về cái buồn, cái đau, cái mất mát … Họ phải xóa mất thiên hướng riêng, số phận riêng để ca hát giữa “nắng mai” tươi hồng chăng? Mình thương Chế Lan Viên quá … Tuy nhiên, vậy cũng phải … cũng nên “vì nhân dân, quên mình”!– Khoai cười xóa ấp ý tưởng hơi “lên gân” nhưng chân thành của anh –.
Anh Trà và Huyện bưng cà phê lên. Bảy người, chỉ có hai chiếc phin. Anh Trà cười:
- Thông cảm nhé. Đợi lâu lâu một chút.
- San ra uống dần đi.– Hoán nói –.
- Thế thì rất hay.– Huyện cười –. Ít mới ngon.
Nam mở gói thuốc 475, đặt trên thùng gỗ đồ nghề, bên cạnh mấy tách trà sứt quai và li lớn thủy tinh, loại li giải khát. Cam Ly cười ngất:
- Uống cà phê kiểu này đúng là … chưa từng thấy.
Những tiếng cười thân tình vang lên thật vui. Nam thấy đã được, san ra để cùng nhấp môi.
- Ngon tuyệt.– Khoai chíp miệng –.
- Hóa ra anh Trà định cư ở huyện Công này rất lâu rồi?– Lộc Biếc hỏi với giọng vốn ngọt ngào –.
- Từ năm tư. Nhưng đi học, đi dạy, đi lính, bị bắt làm lao công chiến trường, ở các nơi khác cũng khá dài.
- Anh dạy môn gì vậy anh Trà?
Anh Trà cười, không nói. Nam trả lời thay:
- Môn triết. Chỉ duy nhất dạy khối lớp mười hai.
Lộc Biếc tỏ vẻ cảm phục. Cô khiêm tốn:
- Bọn em đều học triết lớp mười hai trước bảy lăm. Anh có đọc triết bây giờ không, cả kinh tế – chính trị học?
Anh Trà dè dặt gật đầu.
- Chắc không hạp lắm?– Lộc Biếc lại hỏi –.
- Ngày trước, ở đại học văn khoa, học triết Đông, triết Tây tùm lum các thứ, nhưng dạy ở trung học có mỗi triết Tây, đúng hơn, triết Tây “thập cẩm” là chính … Bây giờ chỉ có mỗi một vị!– Anh Trà thở khói, trầm ngâm –. Triết bây giờ là triết của kinh tế, chính trị, là triết hành động, triết cách mạng xã hội, chứ không phải triết để mà triết. Mà ngay cả thiên tài lớn, dẫu có lẫy lừng châu Âu như Trần Đức Thảo, triết gia mác-xít có hạng, về nước kháng chiến, vẫn chưa được trọng dụng! Ông Thảo cũng đành im lặng trên sách báo đến mấy chục năm, thì còn gì để nói! Thôi, cô giáo ạ, bữa ăn độc vị mà thắng thực dân, đế quốc là tốt rồi.– Anh Trà lại cười lặng lẽ –.
- Thì triết của kinh tế – chính trị! Anh thử so sánh xem. Xin thưa với anh, em cũng đã nghiên cứu giáo trình triết văn khoa cũ.
- Cô giáo cứ dồn tôi đến chân tường. Tôi chết mất. Làm sao tôi trả lời được! Cửa trại cải tạo Đạ Bình rộng mở lắm!
Lộc Biếc xin lỗi, cười xòa.
- Cô giáo Lộc Biếc này bao giờ cũng thế.– Hoán nói –. Cái gì cũng phải đến nơi đến chốn, cho hết lẽ mới thôi.
- Vậy, cũng nói cho vui! Ngày xưa các đồn điền trà, cà phê ở cao nguyên này là của Tây, rồi cũng có thêm các ông chủ người Việt. Chủ đồn điền còn có cả máy bay lên thẳng để quản lí đồn điền lẫn nhân công. Bây giờ, đã không giữ được nguyên trạng, mà cỏ mọc với trà, với cà phê. Triết học và thực tiễn! “Thực tiễn là thước đo của chân lí”… Nói vậy là phản động mất. Tôi là trung úy, lao công đào binh, được miễn cải tạo tập trung … – Anh Trà bỗng lúng túng, muốn giấu bớt điều gì –. Ừ, vâng … Tôi “rét” lắm.– Anh Trà lại cười –. Phong phú mọi mặt, giàu có mọi mặt là tốt nhất.
- Bây giờ người ta hành chính hóa kinh tế, mọi người cố bám vào Nhà nước, vừa được quyền lợi chính trị cho bản thân, cho con cháu, vừa có quyền lợi lương bổng, cả lương hưu. Thây mặc năng suất, chất lượng sản phẩm, cung – cầu … Thây mặc tất!– Huyện nói –.
- Nhưng ở đời, có ai thích bị bóc lột mồ hôi, chất xám đâu! Chẳng lẽ cứ chịu Tàu, Tây, Nhật, Mỹ cưỡi đầu, cưỡi cổ và bóc lột!– Lộc Biếc nói –. Chẳng lẽ, chiến đấu cho mệt rồi lại rước Tây, rước Tàu … vào đặt ách lại! Chẳng lẽ tôn vinh tư sản mại bản!
Nam nói với một nụ cười:
- Người ta đã xầm xì mới đây về “chủ nghĩa kinh tế lãng mạn”, một nền kinh tế vận hành trên cái “nên có” chứ không phải cái “hiện có”, về duy ý chí kiểu Mao. Dẫu sao chúng ta cũng đã vô sản hóa bằng các đợt đổi tiền, tiền Bắc, tiền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, tiền thống nhất, và bằng hợp tác hóa, các đợt đánh tư sản rồi.– Nam lại cười –. Vô sản cả rồi thì “đoàn kết lại, để ngày mai …” Chúng ta “chẳng có gì để mất”! …
Cam Ly cười phá lên. Cô không hiểu Nam khơi chuyện.
- Đùa cho vui.– Nam lại nói –. Lúc này, đất nước chưa hòa bình, bị đe dọa, cấm vận, kẻ thù tứ phía. Tôi vẫn không thích chủ nghĩa tư bản, đế quốc, phát xít, thực dân cũ và mới, nhưng chủ nghĩa xã hội lại có vấn đề. Hiện nay trên sách báo đã manh nha sửa sai. Nhưng thôi, tôi thấy nặng nề quá. Về lí luận, có Lộc Biếc đây … Vâng, rồi sẽ phong phú về triết, hi vọng vậy, nhưng chắc sẽ không chiết trung … Nói chuyện gì khác cho vui đi …
- Rốt ráo một chút chứ. Di sản thực dân, đế quốc gồm các thứ đồn điền, và kể cả thành phố Đà Lạt cũng như chữ quốc ngữ, Tây nó làm ra cho nó, để bóc lột về kinh tế, để phục vụ cho mục đích chính trị xâm lược của nó, chứ không “khai hóa” gì cả. Chúng chỉ cướp nước bằng sự lừa bịp “khai hóa”! Chúng ta trả giá quá đắt cho các thứ “khai hóa” bịp bợm. Không ơn nghĩa gì cả! Chúng ta đã cướp lấy “vũ khí khai hóa” (như chữ quốc ngữ chẳng hạn) để hoàn thiện, và giáng trả lại chúng!– Lộc Biếc vẫn dấn tới –.
- Thôi, bớt nóng, Lộc Biếc ơi.– Nam đấu dịu –. Điều đó rõ rồi. Nếu các nước phát triển giúp các nước đang phát triển với trái tim trong sáng, không vụ lợi, nhất là giúp khoa học – kĩ thuật thì chúng ta nhớ ơn đời đời, thế giới hòa bình và cùng phát triển lâu rồi. Không nhớ ơn Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp, A-lếch-xăng đờ Rốt (Alexandre de Rhodes), Dẹc-xanh (Yersin) … gì cả. Dẫu biết trong bọn thực dân vẫn có tên khá tốt, nhưng phải làm rõ cụ thể cái phần thực dân ở các tên đó. Thôi, xin chấm dứt. Nói thế là rốt ráo rồi, đồng ý chứ?
Lộc Biếc im lặng. Hoán xuống bếp với anh Trà để pha cà phê thêm. Không ai nói gì nữa. Khoai nhìn ba tấm tôn làm mái quán, tôn khá thấp, nghe tiếng cành lá mít cọ quẹt bên trên. Nếu không có hai gốc mít khoảng năm, bảy tuổi hai bên, chắc lúc này không thể ngồi ở đây. Chẳng biết mít này do ai trồng. Có lẽ hạt do công nhân đồn điền ném xuống đất. Những chiếc máy cày của Ban Quy hoạch vùng kinh tế mới đã chừa lại. Khoai bỗng đâm ra vẩn vơ, ngó mông lung ra mặt đường rực nắng. Khoai không để ý Huyện và Lộc Biếc đang trao đổi điều gì với Cam Ly. Cam Ly cười thích thú, vô tư.
Nam thấy vừa đủ, anh không ngờ câu chuyện đùa vui hóa ra nặng nề đến thế. Điều Nam đang băn khoăn vẫn là một chuyện tình. Nam hiểu anh đã rơi vào thế kẹt, không khéo sẽ gây tác hại khôn lường, Nam sẽ phải ân hận suốt đời.
Anh Trà và Hoán bưng cà phê lên, lần này có cả một bình trà nữa.
- Phải lấy thực tiễn chọi thực tiễn, kinh tế là phải vậy, không lí luận suông được đâu. Rồi mình sẽ thắng trong chiến thắng chung, thực dân, đế quốc kinh tế phải bại trước nhân loại.– Lộc Biếc vẫn nói, giọng hơi rắn lại, song vẫn dịu dàng từ tốn –.
Nam gật đầu. Anh không ngờ cô giáo xinh đẹp này lại hiếu chiến, hiếu thắng đến vậy. Anh Trà cười:
- Vâng, nhất trí … Tôi bây giờ chỉ biết yêu thiên nhiên thôi. Yêu con người rắc rối lắm. Thế mới hiểu các cụ ngày xưa, bao giờ cũng xem vẻ đẹp của đất trời là bầu bạn thâm tình, tuy cô đơn, hoang vắng. Cô Lộc Biếc có thấy trăng cao nguyên, sương khói và màu xanh núi đồi, tiếng suối và thác … mãi tuyệt vời chứ?
Gương mặt Nam rạng rỡ hẳn, hi vọng anh Trà đã quên đi mặc cảm cũ để thấy được sự thật, và lẽ phải, cái đúng. Nam cũng mong anh Trà rồi dần dần sẽ bớt yếm thế, tiêu dao kiểu đạo sĩ ấy đi.
- Không. Thiên nhiên đẹp, nhưng tình yêu đương là đẹp nhất. Muôn năm trái tim của người nam, người nữ! – Huyện nói với nụ cười, ngữ điệu hơi khẩu hiệu để đùa tếu –.
Khoai pha trò:
- Huyện là nhà cách mạng xã hội bằng trái tim yêu đương. Tôi đã từng một thời cũng chủ trương như vậy. Phải thống nhất hai miền đất nước, các nhân tộc đồng bào, miền xuôi, miền núi, thành thị, nông thôn, trí thức, thợ thuyền bằng tình duyên đôi lứa.
- Đó là một triết học lớn.– Anh Trà cười phá lên –.
Cam Ly cũng cười:
- Yêu đương và thiên nhiên! Cả hai chứ?
- Yêu đương là cốt lõi của triết học có tên là chủ nghĩa Khoai – Huyện!– Nam cũng đùa –. Đó cũng là triết học thực tiễn, trong sáng, nhân bản.– Nam bật cười với các từ rất kêu vừa dùng –. Thống nhất ở chiều sâu!
- Vượt lên các thành trì nhân chủng, ý hệ, giai cấp, địa phương để đại đoàn kết.– Lộc Biếc “dịch” lại –. Xem ra cũng hay.
Nam thấy đã có thể nói điều cần nói:
- Có một truyện tình thế này, với nhân vật xưng “tôi” (“tôi” chỉ là một nhân vật hư cấu của tác giả). “Tôi” đã có vợ con, nhưng vợ con đã bị đắm thuyền hay đã trôi giạt vào hoang đảo, vào đất nước nào đó. “Tôi” chờ đợi và tuyệt vọng. “Tôi” lại trót yêu một cô giáo đã góa chồng, có một đứa con trai, sau vài năm hết hi vọng gặp lại vợ con. Nhưng cô giáo cần uy tín, đứa bé cần giữ gìn nhân cách của mẹ. “Tôi” không biết làm sao cả. Bao nhiêu học sinh không thể mất niềm tin vào con người, vào nhà giáo. Hoặc là “tôi” kiên quyết đoạn tuyệt với cô giáo ấy đẻ cứu lấy trẻ thơ, hoặc là “tôi” phải quên hẳn vợ con, từ bỏ lòng chung thủy khá vô vọng để cưới cô giáo, và nuôi dạy đứa con trai của cô giáo như con “tôi”.– Nam mỉm cười –. Phải dứt khoát, một trong hai. Câu chuyện kết thúc lửng lơ như thế. Phải cứu trẻ thơ bằng một trong hai cách.– Nam im lặng –.
Cam Ly hỏi:
- Thế là thế nào?
- Là nhờ các nhà giáo ở đây, cả anh Trà, vốn là nhà giáo ngày trước … Xin nhờ một cách giải quyết, vì học sinh, vì tình yêu …
Anh Trà chột dạ, im sững, cũng không nói gì.
Cam Ly ngơ ngác:
- Sao thầy Nam lại kể chuyện này?
- Ồ, nhân nói chuyện tình yêu mà. Bộ cô Cam Ly thấy truyện ngắn ấy vô duyên lắm sao? Chả li kì gì cả, phải không?
- Con người vốn rắc rối lắm! Tin vào con người làm gì!– Huyện nói –. Cho học sinh, từ trẻ thơ đến thanh niên, hiểu rõ con người với các mặt xấu xa, bỉ ổi: tình dục, tham ô … cho bớt ảo tưởng về con người, về nhà giáo! Nhưng yêu thì vẫn yêu! Yêu cả mặt xấu! Chỉ đạo sĩ thoát tục mới yêu thiên nhiên! Tin sơ sơ vẫn yêu!– Huyện điểm tiếng cười sau câu nói –.
- … và yêu rồi tin, tin càng yêu.– Khoai lại đùa –. Biện chứng của cặp phạm trù này hay lắm. Chặt chẽ chứ không dễ dãi đâu!– Nụ cười hài hóa của Khoai chợt tắt bất ngờ …–.
Anh Trà hơi run tay khi đánh diêm châm lửa vào điếu thuốc. Anh im lặng nhả khói. Nam chợt thấy mắt anh Trà hơi lạnh.
Lộc Biếc lại góp ý thêm trong khi Nam đã ngài ngại:
- Tin vào con người với năng lực, lương tâm và khả năng hướng thiện. Tin, sau khi nhận thức rõ con – người, quỷ – thánh trong con người. Còn câu chuyện ấy, sự lựa chọn quá dễ, vì quá rõ …– Lộc Biếc nói –.
Nam vẫn hi vọng:
- Nếu sự lựa chọn quá dễ, chắc không có gì đáng mừng hơn.– Chợt thấy anh Trà lắc đầu, Nam đâm bực –. Nhà giáo như thế, dạy học, giáo dục trẻ thơ và tuổi trẻ được không? Nhà giáo ngụy tín với các tiêu chí đạo đức sẽ đào tạo ra những gì? – Nam bỗng hơi gắt gao với những câu hỏi –. “Lương sư hưng quốc” (nhà giáo tốt, đất nước mới hưng thịnh) mà! Tôi còn nhớ bốn chữ ấy ở Đại học Sư phạm Sài Gòn. “Thụ nhân” (trồng người): hạt giống tinh thần gieo vào tâm trí học sinh là chất xám và nhân cách nhà giáo. Hai chữ ấy là tên của Đại học Đà Lạt, trong đó có Khoa Sư phạm? Hay chính mảnh đất đa khoa ấy là mảnh đất “thụ nhân”? Tôi không rõ lắm về Đại học Đà Lạt, nhưng tôi hiểu hai chữ “thụ nhân” ấy là trích từ một câu ngạn ngữ của nhà nho.
Anh Trà vẫn lặng lẽ hút thuốc. Những sợi khói men theo các chân râu rồi bay lên mái tôn thấp. Không ai nói gì nữa. Một không khí hơi ngột ngạt bao trùm. Nam cảm thấy cần phải về, không thể nán lại đây lâu hơn, tuy mái tôn không bỏng nắng, và quán thoáng gió.
Cả nhóm giáo viên bắt tay anh Trà, ra về trong nắng chưa trưa.
Không ai nói gì cả, ai cũng cảm thấy buổi sáng đã hỏng.
Khi đi ngang qua nhà cô giáo Xinh, Nam muốn vào gặp bé Ngoan để nói với cô bé rằng, các thầy cô chưa ai biết gì, và chắc chắn không ai đồng tình, đồng lõa với kẻ đã để lại vết nhơ trong tâm hồn của Ngoan đâu. Nhưng rồi Nam vẫn cùng các bạn về nhà tập thể. Nam tự bảo, chiều nay phải một mình đến với cô bé Ngoan để nói rõ điều đó. Còn những môn thi Ngoan phải làm tốt trong vài ngày tới. Nam cũng hơi buồn khi hiểu ra cả anh lẫn Lộc Biếc đã lí quá, thiếu đi một chút mềm mại, ấm áp, tin cậy của tình người. Lí, dễ gây ra đổ vỡ đau đớn trong lòng bất kì ai. Nam đâm ra hối hận. Chất trẻ là lãng mạn, chất trẻ còn là lí sự? Nam bỗng cúi đầu đếm bước. Lí sự là mặt bên kia của lãng mạn ở tuổi trẻ chăng? Ngoài lí lịch cha anh, bản thân nhóm bạn của Nam, những người trẻ mới hai mươi hai tuổi, họ chưa có quá khứ dính líu vào chế độ cũ, lại tham gia phong trào phản chiến, và được học gần suốt bậc đại học dưới chế độ mới, họ mới bước vào đời, nên còn quá sách vở chăng? Nam tự ngẫm nghĩ.
Khi về đến nơi, Nam mới kịp treo chiếc mũ vải màu xám tro lên móc, anh Giảng từ văn phòng bước qua, ngoắt Nam.
Đứng bên cạnh chuồng thỏ, cứ như quan sát lũ thỏ gặm cỏ ra sao, anh Giảng nói khẽ:
- Ông mới từ nhà ông Trà về?
- Vâng.
- Đừng đến đó nữa. Tôi đã biết vụ cô Xinh từ năm ngoái. Tôi làm việc với cô ấy về vấn đề đó để bảo đảm uy tín nhà trường nhiều lần rồi. Cô ấy vẫn như bị bùa mê, thuốc lú. Chắc phải có biện pháp thích đáng. Ban An ninh xã nắm rất rõ.
Nam chỉ buột miệng:
- Vậy hả anh!– Nam đứng nghẹn, vin vào hàng rào sắn –. Em đi công tác chủ nhiệm vì thương bé Ngoan.– Nam nhìn thân sắn đang trổ lá xanh, nhìn những con thỏ hom hem, gầy guộc –.
Anh Giảng đăm chiêu, chợt nói:
- Thôi, vào chuẩn bị ăn trưa. Chuyện đâu còn có đó.
Vào lại căn nhà nam, thấy Huyện đang ngồi huýt sáo một ca khúc quen thuộc, song đầu óc có lẽ nghĩ ngợi chuyện khác, Nam ngỡ là chuyện khi còn ở quán anh Trà. Nam cười:
- Suy tư chuyện gì vậy? Phải trung thực nhìn nhận, dẫu sao, nền kinh tế năm thành phần vẫn rất hay, đúng không?
- Ừ, đúng vậy … Nhưng … Mình thấy đời vẫn còn nhiều chuyện đau lòng quá! Nhìn nhận nỗi đau thời chiến và hậu chiến cũng là trung thực!
Nam khẽ đọc vu vơ vài câu thơ anh viết từ tháng trước:
- Ka Đum! Ka Đum!
cồng ngân sâu, hương lúa ngút hơi trăng,
tan trong câu hát ngày mùa,
trái tim này nghiêng vào lòng nọ … (31)

Nam lại nghĩ đến cô bé Ngoan tội nghiệp.
Khoai nhăn nhó:
- Lâu rồi không uống cà phê, ngon thì ngon, có điều xót bụng quá, mấy ông ạ.
Anh Quỳnh cười vui, đậy nắp bút lại, gãi tay vào những chân râu quai nón xanh:
- Cà phê là món của người ăn nhiều chất đạm, chất béo, mình ăn bo bo, tí cá khô, lại nhịn buổi sáng, thì chỉ tổ héo hon thêm.
- Hồi nãy, Nam kể chuyện tình ấy với ý gì?– Hoán nhìn Nam, thắc mắc –. Chắc không phải vui chuyện mà kể?
- Vui chuyện thôi.– Nam nói –. Bịa ra cho vui. Có đạo đức giả lắm không? Thật ra, ai cũng ít nhiều có lỗi lầm này nọ, còn có nguy cơ phạm khuyết điểm cho tới già, tới chết.– Nam cảm thấy hơi xấu hổ, bởi hồi nãy hơi “dạy đời” thế nào ấy!
- Không. Tôi ủng hộ ông. Nghề giáo dục trước hết là tự giáo dục, tất cả vì học sinh, nhất là học sinh nhỏ tuổi. Cũng như tôi viết văn, làm thơ, tôi tự xác định trước hết là để tự giáo dục. Hẳn ông cũng vậy, phải không Nam?– Khoai nói –. Hoa thơm, rồi tự nhiên nhi nhiên góp hương với đời …
- Hoan hô đồng chí nhà văn Đỗ Khoai.– Anh Giảng bước qua gian nhà nam, đứng trước cửa, cười hăng hắc một cách vô tư –. Đói bụng rồi sao?– Anh Giảng vào ngồi ở bàn soạn giáo án –. Này, các ông xem, chẳng hiểu sao dâu vườn trường trụi lá cả. Chẳng hiểu ai hái trộm hai đợt rồi! Thế có bực không chứ! Lại nữa, hôm tôi ra họp ở Phòng Giáo dục, ông K’Đăng lại yêu cầu cô Lộc Biếc cho mượn cuốn luận văn tốt nghiệp. Chuyện đầu năm đến giờ chưa êm đấy. Chả biết sơ kết học kì một này có gì rắc rối không. Thêm một điều nữa, các giáo viên chủ nhiệm nhớ viết báo cáo về các lớp nhé. Hôm đầu tháng họp Hội đồng phân hiệu, có thông báo rồi. Luôn tiện nhắc lại thế. Tết nhất đến nơi rồi …
Bỗng tiếng cô Lài sau chái bàn ăn tập thể vọng tới:
- Mời các thầy cô ăn trưa!
Mấy anh em đi vòng ra chái đầu hồi, bước vào chái sau. Trên bàn ăn, vẫn mấy tô bo bo bốc khói, mấy bát canh rau và mấy dĩa cá khô nhỏ. Chú mèo đực liếm mép, gãi râu trên thùng gỗ lớn dùng làm chạn nhà bếp. Mấy phút sau mới thấy các cô giáo từ tốn ngồi vào bàn ăn.
- Xin lỗi mấy đồng chí uống cà phê khi nãy nhé. Lộc Biếc gây căng thẳng quá.– Lộc Biếc cười với hai hàm răng trăng ngời rất duyên –. Không biết anh Trà có nổi giận không!
- Không sao! Không sao! Xin mời cả nhà.– Hoán vui vẻ –. Cơm canh nóng sốt. Xin mời. Lộc Biếc có chửi rủa vào mặt cũng nghe hay mà!
Cả bàn ăn vang lên tiếng cười vui vẻ, mặc dầu nhiều người không hiểu chuyện gì.
Chú mèo đực dễ thương từ dưới đất nhảy phóc lên ngồi cạnh thầy giáo Khoai. Anh vuốt ve làn lông óng mịn nom như một quả mướp lớn màu xám và đen.
Trong giấc trưa hôm đó, Nam không thể chợp mắt theo lệ thường. Không khí ở miền cao nghe đâu hơi loãng dưỡng khí, có thể vì vậy, cũng có thể do chất cà phê lâu ngày mới uống lại, cộng với những cảm xúc hơi căng thẳng lúc chuyện trò ở quán anh Trà, khiến Nam cứ thao thức, băn khoăn. Nam lại nhớ ý nghĩ trên đường về dưới nắng khá gắt. Quả thật, tuổi trẻ quá lãng mạn, lúc nào cũng sục sôi hào khí bởi sách vở, họ quá sách vở, sách vở đậm tính chiến đấu, bừng bừng khát vọng cách mạng. Cũng bởi quá sách vở, tuổi trẻ quá đam mê lí luận đến mức hơi lí sự. Nam thấy mình cần phải sống nhiều với thực tế cuộc đời, không phải để nhụt chí, mà để thấm thía tình đời, nỗi đời hơn. Từ đó, thơ anh mới là tiếng đời. Cuộc đời với chất liệu ngổn ngang, rối rắm của nó luôn vang lên, dội tới, ập vào tim anh, rồi bằng những trải nghiệm của anh, bằng ngôn từ của anh, bằng sáng tạo của anh, tiếng hát của chính cuộc đời đã và mãi cất lên từ tim anh, trái tim vốn nhạy cảm của người làm thơ.
Nghe tiếng mái tôn giãn nở răng rắc dưới nắng nung, Nam mỉm cười một mình trên giường. Hai hình ảnh cùng một lúc đến với anh: một cụ già mỏi xương trở mình, một võ sĩ gồng mình, gân cốt đang vang lên thành tiếng động! Làm sao có vốn trải nghiệm sống chín mươi tuổi trong thân thể tuổi hai mươi ba, nhưng đừng “ê ẩm”, cũng đừng “gồng gân”?
Hơi đất và gió cao nguyên vẫn lạnh dưới mái tôn rực nắng. Nam suýt bật cười trong trăn trở.

24

Khi chiếc xe xích lô chở Nam cùng Khoai ngừng đầu một ngõ hẻm, kề sau chiếc kia chở Lộc Biếc và Huyện, Nam không có cảm giác gì hơn là thấy ngõ hẻm nào, con đường nào ở thành phố này cũng na ná giống nhau, đều xa lạ với anh. Để có một sự phân biệt tinh tế, cần thời gian sống trải nghiệm, nhưng cả Nam lẫn Khoai đã mấy khi ở nơi đô thị này. Thuở nhỏ Nam sống, đi học tại Sài Gòn, có điều, bấy giờ đang quá bé, chẳng được nhiều dịp để rời khỏi căn nhà lợp tôn vách ván của người anh cả. Còn với Khoai, đây là lần thứ hai anh đặt chân tới Sài Gòn.
Lộc Biếc vui cười, hớn hở bước vào căn nhà thân yêu của cô. Một người đàn bà, khoảng bốn mươi lăm tuổi, vừa mừng rỡ đến rưng nước mắt, vừa bối rối khi mở cổng cho cô con gái cưng và ba người bạn của con (bà chỉ biết qua thư của cô gửi về). Bà đang nắm chặt lấy tay đứa con đầu lòng với cái tên “Lộc Biếc” đầy kỉ niệm của bà. Mặc dầu đang xúc động, bà không quên nhà đang có khách. Lúc cùng ngồi quanh bàn xa lông, bà niềm nở:
- Ba cậu ngồi nghỉ mệt ở đây một chút nghen. Tết năm nay nhà này chắc sẽ được vui hơn mọi năm.
Vẫn với giọng Quảng Trị, Nam thưa:
- Xin cảm ơn thím. Chỉ sợ chúng cháu về quấy rầy, nhất là trong dịp Tết.– Nam cười trong khi nói với nụ cười lễ độ –.
- Các cậu đừng khách khí, cứ xem đây như nhà của mình. Trước đây tôi cũng đi dạy học.– Bà cười cởi mở –.
Lộc Biếc bưng ra một chai nước lọc, có giấy bìa vở cuộn lại thành hình phễu úp lên trên, với mấy chiếc li thủy tinh.
- Uống nước đi, các anh.– Lộc Biếc vừa rót nước vừa cười với gương mặt rạng rỡ –.
Cô đẩy các li nước trên mặt kính đã có nhiều vết xước về phía những người bạn, sau khi bưng hai tay một li khác đặt trước mặt mẹ, tuy mẹ ngồi kề cô, trên ghế xa lông dài có lót các tấm nệm mút, vải bọc đã cũ sờn.
- Đây là anh Huyện, anh Nam, anh Khoai, trong thư con đã có lần kể với má.– Lộc Biếc lại quàng tay qua lưng mẹ với cái siết nhẹ –. Đây là má của em.
Cô cười rất tươi đang khi bà khẽ vùng vằng với nụ cười ngượng, vì cử chỉ quá tự nhiên của con gái.
- Các cậu là người ngoài Trung?– Bà thân mật –.
- Thưa vâng.– Huyện đáp –. Hai anh này chính gốc Quảng Trị, còn cháu gốc Huế nhưng ở Đà Nẵng từ lúc chưa lọt lòng mẹ. Gia đình ba mạ cháu mới về lại Huế năm kia để thừa tự.
Chuyện trò một lát, Lộc Biếc dẫn ba người bạn đồng nghiệp lên căn gác gỗ. Ba túi xách hành lí nhỏ để trong góc căn nhà gác khá rộng không ngăn phòng, chỉ thấy có hai bàn viết, hai giá sách. Khi Lộc Biếc chỉ, họ mới thấy sau ô chữ nhật có lan can, lối lên xuống cầu thang, còn một phòng nữa, cửa phòng khóa kín, có lẽ ngay trên căn bếp phía dưới.
- Phòng của Lộc Biếc đó. Đây là hai bàn viết của hai đứa em, không biết hai đứa đi đâu với ba rồi.
- Hình như học y khoa và bách khoa?– Huyện hỏi –.
Lộc Biếc gật đầu:
- Năm thứ ba, năm thứ nhất. Bây giờ các anh cho Lộc Biếc vào xem lại phòng cũ một chốc.
Với chìa khóa trong tay, cô bước tới mở cửa phòng cô đã sống và học tập từ thuở cấp một.
Cả Nam, Khoai lẫn Huyện ngồi bệt xuống sàn gỗ, tựa lưng vào vách lâu ngày chưa được quét vôi lại. Họ nghe tiếng Lộc Biếc bật công tắc trong phòng, tiếng mở cửa sổ. Huyện nhác thấy cây đàn ghi ta treo trên vách, anh đứng dậy, lấy xuống, lại ngồi chỗ cũ, búng khẽ một hợp âm.
Nam bước ra lan can có mấy chậu hoa thược dược nở màu vàng nhạt, tím sáng. Anh đoán là hoa Tết mới được mua về. Trong tầm mắt bị nhà cửa chắn lại, Nam nhìn quanh một số căn nhà dọc hẻm, anh hơi giật mình. Không biết có bị kí ức tuổi nhỏ chi phối chăng, Nam thấy con hẻm này có gì đó giống quá con hẻm thời ấu thơ ở Sài Gòn của anh. Đây lại là xóm đường ray, quận Phú Nhuận nữa. Nam nhìn sững biển “Kéo còi” nhô lên sau một hàng rào sắt phủ hoa ti gôn. Chẳng lẽ đây là xóm cũ hồi đó? Mười sáu năm rồi còn gì! Hồi đó, Nam mới sáu, bảy tuổi. Nam vẫn còn nhớ rõ căn nhà trước sân có cây khế nở hoa tím, mấy bàn quà vặt đầu hẻm sát đường ray và ngôi trường Quốc Anh gần đấy. Chẳng lẽ con hẻm ngày ấy bây giờ lại trổ thêm một đầu ngõ nữa? Chẳng lẽ nơi hai chiếc xích lô đỗ lại hồi nãy, lúc anh còn nhỏ chỉ là một bãi đất hoang đầy cỏ dại, rải rác trong đó là những nấm mồ? Nam nhớ, thuở bé, từ đầu hẻm sát đường ray, chạy đến cuối hẻm, sẽ gặp bãi tha ma cơ mà! Mười sáu năm, thành phố đã mở rộng phạm vi, bãi tha ma đầy cỏ dại ấy đã thành phố, thành phường, đâu có gì lạ. Nhưng Nam lại mỉm cười, có thể Nam nhầm. Con đường ray kia chạy qua bao xóm ở thành phố rộng lớn này. Vì vậy, ngay ở quận Phú Nhuận vốn không hẹp này, xóm đường ray chắc cũng nhiều.
Đang lan man với những cảm nghĩ mơ hồ, Nam thấy một người đàn ông khoảng tuổi năm mươi bên hai cậu con trai ngoài cổng. Họ hơi ngạc nhiên khi thấy Nam trên ban công, và chợt hiểu ra, tiếng gọi cổng càng dồn dập hơn với âm sắc vui mừng. Nam khẽ gật đầu chào, nở nụ cười làm quen. Người đàn ông, Nam biết chắc là ba của Lộc Biếc, đưa tay chào Nam lúc mẹ của cô đi nhanh ra với chùm chìa khóa:
- Lộc Biếc về rồi, ông ơi! Mừng quá là mừng!
Gương mặt người đàn ông khi không còn bị các song sắt đan dây kẽm gai che bớt, hiện ra rõ ràng dưới sân. Nam bất giác giật mình. Sao quen quá, hình như ông ấy là láng giềng của anh cả Nam năm ấy! Bây giờ, Nam cũng thấy má của Lộc Biếc quen quen nữa. Nam đứng sững ngỡ là ảo giác, hay do trí tưởng tượng của anh vốn rất bất ngờ, vì Nam thường xuyên vận dụng khả năng hư cấu hình tượng, một thói quen của người làm thơ, viết văn chăng.
Tiếng reo của Lộc Biếc từ phòng cô, tiếng chân cô chạy xuống thang gỗ khiến Nam cũng nao nức, xúc động.
Nam cũng như Huyện, Khoai, cả ba người định cho phút gặp gỡ người thân của Lộc Biếc lắng lại rồi mới xuống nhà chào ba của cô, bắt tay hai người em trai.
Nam vẫn nghe tiếng ông dưới nhà, vang xuyên qua kẽ ván sàn, vọng lên:
- Sao con không cho ba biết ngày về, để ba với hai em đi đón con và các bạn? Ở thị trấn, sao không ra ngay bưu điện để điện tín về bưu cục của ba?
- Ba cứ tưởng xe cộ dễ lắm đấy.– Tiếng Lộc Biếc cười giòn như muốn che lấp câu hỏi của ba, nghe có chút gì bối rối –.
Nam chợt nhớ lúc còn trên xe, Lộc Biếc đã dặn, đừng nói về những gian khổ ở vùng kinh tế mới kẻo ba mẹ cô lo. Lúc ấy, ba người bạn của cô mới hiểu vì sao lâu nay thư nào từ Sài Gòn gửi lên cũng đề là “Thị trấn Bảo Nghĩa, huyện Công”! Huyện Công đã có thị trấn nào đâu. Đa Công cũng chỉ là xã huyện lị!
Khoai, Huyện và Nam lặng người vì thương Lộc Biếc.

25

Những ngày áp Tết, ngoại trừ các buổi đạp xe đi lang thang trên đường phố, khi với Lộc Biếc, khi với một trong hai người em của cô, Nam thường để ý để nhớ lại xóm cũ. Không còn nghi ngờ gì nữa, vì Nam đã thấy hai chữ Quốc Anh đắp nổi đã bị đục bỏ, vết đục còn rõ hai chữ ấy. Đó là trường cũ của anh, năm Nam mới học lớp hai, theo cách gọi bây giờ. Những gương mặt bạn bè năm ấy đã mờ nhòa không rõ nét trong trí nhớ. Anh đã hỏi Lộc Biếc, và hiểu một mình với niềm thú vị. Lộc Biếc chính là cô bé học cùng lớp, bạn cùng lối xóm với anh hồi đó! Hồi đó, anh đâu biết cái tên của cô là ngồ ngộ, gợi lên một cảm giác rất thơ ca về chữ và hình ảnh. Hồi đó, cái tên Lộc Biếc lẫn với bao cái tên khác. Nhưng Nam chưa chia sẻ điều thú vị ấy với cô, cả với ba má cô. Ở đời, có những ngẫu nhiên không ai có thể ngờ được!
Nam cứ muốn nói điều này ngay với Lộc Biếc, song cảm thấy chỉ nên nói vào ngày sắp trở lại Bảo Nghĩa. Như thế, theo Nam có lẽ hay hơn.
Buổi chiều hai mươi chín, tháng cuối năm, lúc ông Điều – ba của Lộc Biếc – ngồi trên chiếc ghế xếp đan bằng sợi ni lông, cầm đàn ghi ta, gảy nhẹ, rồi khẽ hát vài câu của một ca khúc mừng xuân, Nam bỗng nhớ rất rõ hình ảnh của ông năm ấy, lúc căn nhà này chưa có gác, cũng chưa xây vách. Năm ấy, ông Điều mới ngoài ba mươi tuổi, buổi chiều thường ngồi trước hiên nhà trông ba đứa con, vừa đàn vừa hát.
Ba chị em Lộc Biếc với ba người bạn của cô ngồi trên các chiếc ghế gỗ nhỏ, mỗi buổi sáng dùng để bán bún bò Huế, mẹ cô dọn ra sân cho khách ngồi. Trong phòng của Thủ và Thuận – hai người em của Lộc Biếc – bây giờ nom sáng hẳn ra bởi mấy chậu hoa cúc vàng, cúc ma-gơ-rít (marguerite) trắng, Huyện và Khoai mới mua tặng họ. Nam cũng mua tặng hai người em của cô một tập nhạc gồm các ca khúc cổ điển mới được xuất bản với lời ca viết khác hẳn trước. Tập nhạc ấy, ông Điều đang lúng túng hát, vì vốn quá quen thuộc, bỗng lạ như chưa hát bao giờ.
- Lâu quá cũng không cầm lại đàn, nhạc được đặt lời khác, thành ra bối rối.– Ông Điều cười –.
- Thưa chú, hình như chú có sáng tác nhạc và thường phổ thơ?– Huyện hỏi –.
Ông Điều thoáng xa xăm:
- Cũng có, võ vẽ đôi bài hồi thanh niên, thơ cũng của bà nhà thời còn trẻ.– Ông bật cười –. Sau khi có con cái đùm đề, lương bổng công chức bưu điện với giáo chức tiểu học chả bao nhiêu, lại bị tư thương đầu cơ tích trữ để nâng giá gạo sữa, phải tranh thủ chạy xe thồ gắn máy,– Ông Điều cố tránh từ “xe ôm” dung tục –, đâu còn tâm trí đâu mà thơ với nhạc.– Ông lại nhìn Huyện với nụ cười hài hước dưới bộ râu mép đã có nhiều sợi bạc –. Đàn cũng phải bán kia đấy!
Nam nhận thấy ông Điều có một nét rất hay là biết bỡn cợt với những khó khăn đã nếm trải.
- Nhưng nói thật, đến đồng lương bây giờ thì chết đói. Sài Gòn xưa nay chỉ có thời điểm này là gay go nhất. May thay, sinh viên lại có học bổng, có tem phiếu loại E, cũng đỡ khổ và yên tâm học.– Ông Điều lại cười –. Như các cậu thấy, bà nhà tôi phải nghỉ dạy học, bán bún bò Huế mỗi buổi sáng đấy.
- Dạ, ai lúc này cũng thế. Dẫu sao sài Gòn vẫn là nơi dễ chịu về mức sống so với Huế.– Huyện thưa –.
- Vậy hả? Huế khó lắm sao?– Ông Điều nói –. Chỉ sinh viên vô tư, tâm hồn còn trong sáng, lại được học hành trong thời điểm này mới sáng tác được. Tôi có nghe Lộc Biếc nói cậu Khoai với cậu Nam có làm thơ và thơ hay lắm?
- Dạ có, nhưng tàm tạm thôi, thưa chú.– Nam đáp –.
Lộc Biếc đưa tờ giấy học trò bằng hai tay:
- Anh Nam mới có bài thơ mới nè ba.
Ông Điều sửa lại gọng kính, khẽ đọc:
- ai đưa anh về chốn xưa
gặp anh ngồi dưới hiên trưa, thuở nào
nắng nồng ngàn ngạt hanh hao
khét khê tôn ván nung vào giấc mê
khế rơi hoa tím bên hè
riêng anh lặng nhớ Ba Thê tím hồn
tắc kè núi Nhỏ kêu dồn
thương mây đỉnh Tượng bồn chồn thương ai
tím hoa rơi tiếng thở dài
nhớ anh mẹ khóc? nhớ ngoài Trung mưa?
rừng xanh thốt nốt xanh dừa
chị hoài hát múa trong mùa chiêm bao
miền Tây hương mật ngọt ngào
tuổi thơ rợp mát ngã vào lòng cha
nhà xa quê, anh xa nhà
trưa Sài Gòn tím từng hoa rơi buồn
một bé bỏng, mấy nhớ thương
lạc trong xóm trọ, sân trường tuổi thơ
anh đi lạc đến bây giờ
tháng giêng lộc biếc đâu ngờ xanh xưa
đưa nhau về lại ngõ trưa
cuối năm nhớ tím hoa mưa hè nào … (32)

- Mình gặp lại mình với kỉ niệm cũ, kỉ niệm cũ lại chỉ là hoài niệm về nơi khác, đâu tận Huệ Đức, An Giang …– Lộc Biếc cười –. Anh Nam bảo là hư cấu! Ba thấy phổ nhạc được không ba?
Ông Điều gật gù:
- Thơ lục bát khó phổ lắm. Ờ, cũng quá lâu rồi, ba có viết dòng nhạc nào đâu.– Ông lại nhìn Nam –. Cậu hư cấu thật à? Vẫn có chút thật nào đó của con người thật trong mình chứ?
Nam vẫn mỉm cười:
- Dạ, hư cấu hay không đâu quan trọng. “Cái tôi là cái đáng ghét”, đem phơi trần trên báo làm gì. Cháu cứ xem mọi tác phẩm nghệ thuật, kể cả tự khúc, tự truyện đều hư cấu. Tác giả truyện thơ, tiểu thuyết đem cái tôi của mình gán vào nhiều nhân vật cũng là hư cấu hoàn toàn như các nhân vật hoàn toàn hư cấu khác. Ngay thơ trữ tình cũng vậy. Cứ xem như vậy, thấy đỡ chướng, đỡ kì hơn. Viết cho công chúng, đâu phải cho mình.
- Cũng được. Tôi không rõ. Có điều trong ứng xử hàng ngày, càng giấu cái tôi càng lịch sự. Có lẽ cậu khiêm tốn?– Ông Điều lại cười –.
Nghe Nam với ba bảo vậy, Lộc Biếc hơi giật mình, nhưng cô vẫn nói:
- Ứng xử nghệ thuật khác chứ ba! Trong đời sống, khó bày tỏ, người ta mới viết thư, mới làm thơ chứ! Nhưng thơ đăng báo …
Ông Điều ngẫm nghĩ. Hồi lâu, Thuận nói:
- Cứ mơ hồ, chập chờn thế là phải lẽ. Đó không phải là bài toán chính xác. Nghệ thuật có nhiều đáp số mà. Đã không chính xác, cứ quy là hư cấu tất thảy … Con cũng nói mò vậy.
Cả mấy người bật cười.
- Cứ quy hư cấu hết, vậy là chính xác nhất.– Lộc Biếc vẫn còn cười –. Đúng hơn, tương đối chính xác nhất.
Nam tủm tỉm, thế là anh vẫn giấu được những cảm nghĩ rất thật của anh với cô bạn tuổi nhỏ và ông láng giềng ngày xưa.
- Nhà văn, nhà thơ khoe cái tôi trên báo, kì thật!– Khoai nói –.
- Thưa chú, hồi sáng hôm qua, ra đầu hẻm mua thuốc lá, cháu có nghe nói, trước sân nhà mình đây, ngày xưa có cây vú sữa khá sai quả?– Nam khẽ hỏi, cố lái câu chuyện sang hướng khác –.
Ông Điều nhìn trên mắt kính:
- Đúng rồi. Sau phải chặt bỏ để sửa nhà.
- Không phải bọn con nít quấy hở chú?– Nam cố nén cười –.
- Ừ, cũng một phần. Mình mất lòng láng giềng cũng vì cây vú sữa ấy. Bọn nhỏ cứ leo hái, mình canh chừng nó té, mệt quá.
- Con lại tiếc quá chừng tiếc, khi ba thuê người chặt.– Thủ nói với một thoáng hồi ức –.
Nam nhớ con chó bẹc-giê (berger) nhà ông anh cả đã đớp ông Điều một phát vào tay, lúc ông đuổi Nam với ngọn roi mây, thuở đó, bởi Nam với lũ trẻ hàng xóm vượt rào leo cây hái trộm. Nam lại cố nín cười. Và chính Lộc Biếc, chứ không ai khác, đã ôm mặt, mếu máo rồi khóc òa khi thấy máu chảy ướt cả tay áo bà ba trắng của ba. Cô bé Lộc Biếc nước mắt ràn rụa, nước mũi cũng tèm nhem. Nam muốn thú thật chú bé nghịch ngợm của nhà có chó bẹc-giê ấy là anh, nhưng thấy nên im lặng là tốt nhất. Tất cả đã được tháng năm làm ngọt ngào, lên men rượu say nồng, ấm áp. Tuy biết vậy, Nam vẫn thấy ngượng thế nào ấy.
Bỗng nghe mẹ Lộc Biếc gọi xuống ăn cơm, Nam nhìn ra, thấy trời đã sụp tối, ánh điện ở các căn nhà đã nổi sáng.
Trong mâm cơm trên chiếc bàn tròn vẫn được xếp lại làm đôi sau khi ăn, Nam thấy có hai món rất Nam bộ. Đó là trứng vịt kho với thịt mỡ, nước dừa, và canh chua cá lóc.
- Có hương vị Tết rồi đây.– Ông Điều vui vẻ nói –.
- Này, ông nhà, lần đầu tiên tôi biết có tem phiếu gạo đó nghen. Nhỏ Lộc Biếc với ba cậu đây mang về tôi mới biết!
Nam, Khoai và Huyện hơi ngượng. –
- Dạ,– Huyện nói –, trên trường chúng cháu dạy học có em Hạ rất nhiệt tình, chu đáo. Hạ lo tất cả, chúng cháu chỉ biết mang về. Lúc này, chúng cháu thấy cần thích nghi với tem phiếu.
- Nhà đây ai cũng có tiêu chuẩn Tết của Nhà nước cả, trừ mỗi mình tôi đã thành thường dân thôi.– Bà Điều cười vui vẻ –. Thấy nó kì kì thế nào, nhưng thế nào cũng được. Thế cũng vui!– Bà Điều bưng tô cơm lớn đến và ngồi xuống –.
- Má biết không, ở ngoài Bắc trước khi có chế độ tem phiếu, cán bộ đi công tác hay dân đi thăm nhau đều mang theo ruột tượng cả đó.– Thuận nói –. Thời buổi khó khăn chung mà!– Thuận so đũa –.
- Thôi, nói chuyện đó làm chi.– Ông Điều bỗng thấy kì quá–. Thôi, mỗi người làm hết chung rượu này đi.
Lộc Biếc thấy ngượng lắm tuy biết mẹ chỉ buột miệng nói vui, mỗi người đỡ một câu cho nhẹ bớt, hóa ra nặng nề mất vui. Có điều cô cũng mừng khi thấy ai cũng trực nhận được điều ấy.
Ông Điều liên tục mời ba người bạn của con gái cạn li. Họ cảm thấy người Nam bộ, tuy ở Sài Gòn, bao giờ cũng hiếu khách và tự nhiên. Chính vì thấy ba người bạn sẽ phải trải qua một cái Tết xa quê ở nhà tập thể, mọi giáo viên khác đều về Đà Lạt hoặc Đa Công, nên Lộc Biếc mới gửi thư về nhà trước cả tháng để xin phép ba má, sau đó cô mới ngỏ lời mời họ cùng về nhà ăn Tết. Họ cũng nhận ra bà Điều rất tốt bụng, niềm nở một cách hồn hậu. Lộc Biếc là một cô gái Sài Gòn với những nét rất hay và lạ, khác với sự dè dặt, rụt rè, khép nép, sâu lắng của con gái miền Trung. Họ thấy không khí trong nhà vừa trí thức, vừa dân dã rất đỗi mới mẻ, cả ba đều chưa từng gặp bao giờ.
Hồi nhỏ, Nam cảm nhận điều này không rõ ràng lắm. Trong bữa cơm, Nam cứ nhớ mãi trái vú sữa hái trộm, gương mặt ràn rụa nước mắt, nước mũi của cô bé Lộc Biếc năm nào. Anh vừa ngượng, vừa buồn cười.
Bữa cơm ấy, họ uống khá nhiều rượu với rất nhiều tiếng cười cất lên rôm rả. Rượu là thứ thuốc chữa bệnh ngượng khá hiệu quả.
Đêm đó, Khoai nói với Nam:
- Cũng hay, lâu nay cái tôi trong thơ mình, thơ Nam đều là “cái tôi trữ tình hư cấu”, tuy gắng riêng về phong cách. Vấn đề là phong cách, bút pháp! Style, c’est l’homme (bút pháp, ấy là người).– Khoai nói thêm một câu ngạn ngữ tiếng Pháp quen thuộc, và theo phép lịch sự, anh dịch ra luôn, mặc dù trong tâm thức Nam câu ấy đã đọng lại tự bao giờ –.
Nam chợt nhớ câu nói hôm nào khi cả nhóm bạn trên đường đi đến nhà anh Trà:
- Lộc Biếc đã nói đùa theo câu nói của ai đó, rằng trái tim nhà thơ thuộc về nhân dân. Hơn nữa, các thi sĩ bây giờ lại càng là thi sĩ nhân dân. Quân đội nhân dân, giáo viên nhân dân … Tất cả đều có thêm định ngữ “nhân dân”. Và càng lớn lao hơn, nếu trái tim nhà thơ không những thuộc về nhân dân mà còn thuộc về nhân loại!– Nam nói nghiêm túc, chân thành, nhưng chợt bật cười –. Mình nhớ một người bạn cùng quê lại đùa, tất cả đều thuộc về nhân dân, chỉ có ngân hàng, kho bạc là thuộc về Nhà nước mà thôi, nên gọi là ngân hàng nhà nước, kho bạc nhà nước!
- Nhưng đúng theo thể chế, Nhà nước cũng là Nhà nước nhân dân, có điều những cán bộ giữ tiền, chi tiền giúp nhân dân lại quên nhân dân mất …– Khoai nói và cười –.
Đây không phải là nhà tập thể trường Bảo Nghĩa, nên cả hai đều phải nín cười nhưng không thể không cười khúc khích.
Vừa chuyện trò, vừa đùa cho vui, Nam và Khoai đều hiểu bằng chính lao động làm thơ, viết văn của mình, ngay cả những gì rất riêng tư như tình yêu đôi lứa, khi đã thành thơ tình, hai nhân vật “anh” và “em” đều đã là hình tượng nghệ thuật. Và thơ tình đăng báo, xuất bản thành sách là để phục vụ cho bao đôi tình nhân trên đời này. Khi thơ tình đã đăng báo, in sách, có lẽ với phép lịch sự tối thiểu, nhà thơ không nên khẳng định cụ thể ai là “anh” và ai là “em” làm gì. Ngoài ra, nhà thơ còn phải có nghĩa vụ của trái tim là phải làm thơ tình, thơ về các tâm trạng, khát vọng xã hội khác thay cho nhiều tộc người, phân số người trong nhân dân mình nữa … Chỉ có phong cách, bút pháp là nhất quán, cho dù có sự đổi đời về lí tưởng thẩm mĩ, đối tượng phản ánh …

26

Lộc Biếc ngồi cạnh mẹ, rồi chợt đứng dậy khép cửa phòng ngủ. Bà Điều nhìn con gái với đôi mắt trìu mến. Sau năm tháng xa nhà, rời khỏi sự chăm lo của cha mẹ, Lộc Biếc đã đổi khác khá nhiều.
Bà Điều mỉm cười khi thấy con gái mở chiếc chăn gấp tám ra, chỉ còn gấp đôi, trải lên sàn gỗ, rồi cắm phích bàn ủi. Lộc Biếc đã ủi phẳng, đúng nếp nhiều bộ áo quần, và đã treo lên giá móc từ hồi chiều. Còn lại mấy cái, bây giờ cô ủi nốt. Lộc Biếc ngẩng mặt nhìn mẹ đang ngồi bên mép giường, hỏi mẹ có cần ủi thêm tấm áo nào không. Bà Điều nói đủ rồi, bà lại mỉm cười, thấy con gái ủi một lần nữa áo quần của bạn.
Hôm Lộc Biếc mới về nhà, thấy con gái mình hơi gầy và xanh, bà hơi xót ruột vì thương, nhưng rồi cũng nhận ra cô con gái cưng chững chạc hơn, có vẻ cô giáo hơn.
- Con gắng vào biên chế, sau đó xin về dạy tại Sài Gòn này cho gần nhà. Dù sao xa nhà, ở tập thể, má cũng khó yên tâm. Miếng ăn, miếng uống, sinh hoạt hàng ngày, “chung chạ sinh bậy bạ”, lại là con gái nữa, thật bất tiện. Mấy lần má định lên Bảo Nghĩa thăm con đó.– Bà Điều nói lên ý nghĩ của mình, khi ngồi bệt cạnh Lộc Biếc, với giọng nói khẽ –.
- Con cũng biết thế. Có nhiều đứa bạn cùng khóa của con, ra trường rồi, gia đình không cho đi dạy xa, không cho ở nhà tập thể vì sợ hư. Có nhà phải gửi con gái họ ở trọ nhà quen, mặc dù dạy tại các tỉnh lị, phố xá hẳn hoi …– Lộc Biếc thoáng ngừng bàn ủi, lại đẩy nhanh trên mặt vải –. Nhưng bản lĩnh của con người là chính. Nghề giáo không như các nghề khác. Con đã viết thư bao lần nói rõ điều này để ba má yên tâm.
- Bản lĩnh mấy rồi cũng xiêu lòng. Con đừng nói hay, nói giỏi! Cái điều kiện sống nam nữ chung đụng khó giữ mình lắm đó con. Lứa của má đi dạy chỉ ở nhà thuê, mà chủ nhà phải là người thế nào nữa mới bảo đảm uy tín cho mình. Nhà giáo nói chung là tốt, song họ cũng là con người, gặp điều kiện xấu, sa ngã ngay.
Bà Điều càng nói càng lo thêm. Bà chợt thấy lâu nay bà đã hơi liều lĩnh để cho con gái đi xa, “thân gái dặm trường”. Bà cũng cảm thấy mình nói hơi quá đáng.
- Đã là nhà giáo, đâu dễ sa ngã vậy má. Con thấy nhà tập thể giáo viên con ở có gì không tốt đâu. Con cũng có hỏi thăm, mấy năm rồi chưa có biểu hiện gì xấu. Phải rèn luyện trong tập thể chứ! Cả mấy chục con mắt trong tập thể của con chứ! Những tập thể khác con không dám nói, như thanh niên làm đường sắt, thủy lợi … họ bị sa ngã, thậm chí đồi trụy một số người … họ chán đời, buông xuôi, họ xả láng vì hận đời … Thôi, má yên tâm về phần con đi mà.– Cô mỉm cười –. Má thấy mấy người bạn của con có tốt không.– Lộc Biếc vẫn nói rất khẽ như nãy giờ –.
Bà Điều trầm ngâm không trả lời ngay. Bà hơi cau mày rồi lại mỉm cười. Lộc Biếc mắc áo quần lên giá, treo vào hàng đinh trên vách gỗ. Cô biết ba người bạn và hai em mình vẫn ngủ gần cửa mở ra bao lơn, khá xa phòng cô, mẹ với cô chuyện trò rất khẽ, chắc không ai nghe thấy, mặc dù giữa lúc ban đêm thế này.
- Nói thật,– Bà Điều lựa lời để khỏi mích lòng con gái –, cách đây hơn một tháng, nhận được thư con, ba má có bàn với hai em. Người ý này, kẻ ý nọ, nào là bất tiện, mất tự nhiên, nào là nhà mình khó khăn, gác ván mái tôn, rồi chòm xóm người ta không nói nhưng biết đâu họ nghĩ nhà này kén rể …– Bà Điều cười, Lộc Biếc sửng sốt, đỏ mặt, nghẹn lời –.
Cô nhấc cái quạt máy bằng sắt đã long sơn lỗ chỗ hướng về giường ngủ. Hai mẹ con nằm bên nhau. Lộc Biếc muốn ứa nước mắt vì ngượng. Thật lòng mình, cô thấy cô cũng hơi táo bạo, hơi hồn nhiên, và đã gây phiền toái cho người thân. Quả là một học kì đi dạy học, ở trong môi trường tập thể, tình cảm ấy tuy chưa rõ rệt, Lộc Biếc đã quên bẵng Lộc Biếc trước đó với nhiều điều khác. Cô nhận ra, có một Lộc Biếc Sài Gòn, một Lộc Biếc Bảo Nghĩa. Lộc Biếc thấy rõ cô đã nhìn nhận, đánh giá con người khác không còn giống với trước đây. Cô đã giản dị, đơn sơ hơn. Cô không còn thấy vẻ ăn diện, cách đi, dáng đứng của thị dân Sài Gòn là điều nói lên tất cả về con người. Huyện vẫn là thị dân miền Trung đặc sệt, Nam với bề ngoài không chải chuốt, nhưng nghe đâu đã có một thời ăn mặc khá tinh tươm tuy túi không tiền, còn Khoai lại rất nông dân. Cả ba người bạn của cô rất trí thức, tinh tế, sâu sắc. Lộc Biếc quý họ, và cô cũng như họ thấy mình chan hòa với nhân dân, đa số là nghèo khó, quê mùa một cách lành mạnh. Cô chợt có lần hiểu hơn những người bạn quê mùa ở miền Tây Nam bộ của cô thời còn đi học, cũng nhờ cô đã trải qua một học kì ở Bảo Nghĩa. Nhưng về lại Sài Gòn, Lộc Biếc chợt gặp lại một Lộc Biếc trước đây, thời sinh viên, thời học sinh. Cô đã xấu hổ, chẳng hiểu vì sao ở Bảo Nghĩa cô cảm tình với Nam và Khoai hơn Huyện, song từ khi về lại Sài Gòn, cô lại thích đi chung với Huyện hơn! Cô phát hiện ra, vô thức trong cô đã làm một phép so sánh, chọn lựa. Sự phát hiện về chính mình đã xúc phạm đến mình. Lộc Biếc mắc cỡ cho cô biết chừng nào! Và cô cũng không ngờ lòng cô hồn hậu đến mức sợ ba người bạn mình buồn với cái Tết hoang vắng ở nhà tập thể. Nghe mẹ nói vừa rồi, cô lại suýt giật mình đánh thót, hổ ngươi khi nghĩ rằng vô thức đã xui khiến cô làm cuộc kén rể như trong thần thọai, cổ tích!
Có thể ba má với hai em cô đã nghĩ như thế, và chấp thuận cho cô mời ba bạn trai đồng nghiệp về cùng ăn Tết. Họ chấp thuận để chọn chàng rể tương lai cho gia đình chăng? Lộc Biếc mắc cỡ quá! Lộc Biếc nào có nghĩ gì đâu. Ba người bạn cũng muốn hiểu Sài Gòn thêm một chút. Điều này họ đã nói rõ khi vui vẻ nhận lời mời của cô với niềm áy náy, biết ơn. Huyện có muốn hiểu cô, gia đình cô thêm một chút chăng, sau năm tháng dài săn đón cô? Cô chẳng rõ điều gì cả. Lộc Biếc nào có nghĩ gì sâu xa đâu. Vô thức sâu xa thì mặc vô thức, cô chả chịu trách nhiệm gì trước lương tâm trong sáng của mình. Không. Đừng phân tích? Phân tích như chẻ sợi tóc làm mười rồi đặt dưới kính hiển vi điện tử, mọi nghĩa cử của tình bạn, tình đồng nghiệp sẽ thật đáng sợ chăng? Đừng phân tích? Hãy nhìn tổng thể một sự vật, sự thể như nhìn một con người với mọi thành tố, cả bên trong lẫn bên ngoài. Cô vẫn tin mọi hành vi, ý nghĩ của đa số con người là tốt. Nếu cặn kẽ hơn, động cơ vô thức của những con người được gọi là con người đúng nghĩa, dẫu duy ngã, vị kỉ, vẫn đã kết hợp với sự vị tha trong sáng. Vâng, tổng thể là tốt. Ít ra điều này đúng với Lộc Biếc: cô hoàn toàn trong sáng, hồn hậu.
Xin mặc bạn bè, láng giềng và những ai hiểu nhầm cô. Chỉ sợ hiểu nhầm, sẽ sống co rút lại như con nhím xù lông nhọn. Nhưng, kén rể, có gì là xấu! Biết vậy, khổ nỗi, Lộc Biếc đâu có ý nghĩ như vậy. Không. Lộc Biếc muốn tâm hồn mình trong vắt không gợn một vết đục mờ nào. Lộc Biếc muốn tấm lòng cô sáng hơn trăng rằm, bởi trăng rằm còn có vết nhơ “cô Hằng – cây đa thần dược – chú cuội”, ích kỉ, đa nghi, cô độc.
Dẫu sao Lộc Biếc cũng cảm thấy khó chịu. Cô nằm bên mẹ hồi lâu, không nghe mẹ nói gì. Có lẽ mẹ cũng đang suy nghĩ.
- Má thấy ba người bạn của con ai cũng được, mặt mày sáng sủa, tuy Khoai với Nam trông hơi quê mùa. Tùy ba của con …– Bà Điều nãy giờ lại nghĩ rất thực tế, chợt mệt mỏi nói thầm thì, chậm rãi, với tấm lòng quá thật, giàu yêu thương con cái –. … Lộc Biếc à, nhưng dân thành phố lớn, dân kinh kì chẳng hay hớm gì. Hà Nội đểu giả, Huế điếm, Sài Gòn ba xạo … Dân Pa-ri (Paris) … Tô-ki-ô (Tokyo) cũng thế! Tất cả mọi người ở bất kì thành phố lớn nào cũng có chất đáng ghét đó, vì phải bon chen mà sống, phải đối phó lẫn nhau mới sống nổi … Dân nông thôn đỡ phải bon chen hơn, nên được cái chân chất. Chân chất mà hay! Nhưng … – Bà Điều hơi lúng túng để diễn đạt ý mình –, ai cũng có khả năng thích nghi với môi trường sống, Lộc Biếc à. Chán gì người vốn xuất thân từ nông thôn nhưng lại rất thành đạt ở thành phố …
Lộc Biếc trở mình, lay mẹ:
- Má nói gì kì vậy! Con có ý gì đâu! …
Lộc Biếc giận dỗi, xấu hổ đến bật khóc. Cô cắn chặt môi đến gần chảy máu để kìm tiếng nấc muốn trào ra khỏi ngực. Cô nhảy phắt ra khỏi giường, cố mở cửa thật khẽ với những ngón tay run bắn lên. Lộc Biếc hé cửa nhìn ra. Cô mừng khi thấy ba người bạn và hai em trai đang ngủ trong hai chiếc mùng vải dưới ánh đèn xanh mờ. Chắc chắn không ai nghe thấy gì đâu. Cô yên tâm nghĩ thế, rồi tắt đèn ống trắng sáng sau khi bật đèn ngủ, đóng chặt then cửa.
- Thôi mà cưng, – Bà Điều bật cười khẽ –, má xin lỗi. Có lẽ má thực tế quá …– Bà Điều lấy ngón tay vuốt nước mắt cho con gái –. Có bà mẹ nào không thực tế đâu con! Má phải thực tế để suy nghĩ giúp con gái bé bỏng của má chứ. Đến tuổi lấy chồng rồi con gì …
Lộc Biếc cũng cảm thấy bị tổn thương quá mức chịu đựng. Tuy nhiên cô biết mẹ thương cô nhất trên đời này. Thực tế của tình thương đó sao?! Và dù sao đi nữa, không thể sống co rút lại như con nhím xù lông nhọn!

27

Chiều mùng một Tết, nhóm bạn trẻ lại xin phép ba má của Lộc Biếc để đèo nhau long rong trên các đường phố, qua các tụ điểm vui xuân. Lộc Biếc chưa có ý định đến thăm người bạn nào, mặc dầu đã có vài nhóm bạn cùng lớp đến thăm cô, trong đó có nhiều bạn cũng đi dạy ở các nơi không phải thuận lợi gì. Khi chỉ họ còn lại với nhau, dẫu giữa Sài Gòn, họ thấy gần nhau hơn như những ngày ở Bảo Nghĩa. Đôi lúc, họ quên phắt cả Sài Gòn chung quanh. Ý nghĩ về cuộc trò chuyện rất thực tế giữa cô với mẹ thỉnh thoảng lại làm vẩn đục tình cảm giữa bốn người trẻ tuổi trong tâm hồn cô. Lộc Biếc không giận mẹ, cô càng thương mẹ vì mẹ có cách nghĩ, cách lo của một người mẹ gấp đôi tuổi cô, khác thế hệ, khác cả quan điểm, và dù sao cũng xuất phát từ tình thương sâu nặng khó bề đền đáp. Nam và Khoai lại thấy tự hào trong áo quần tuy xoàng xĩnh nhưng đứng đắn, lịch sự. Ấy là niềm tự hào rất chân thành của những người đã tự lột xác để chan hòa cùng nhân dân đa số còn nghèo khó của mình. Nam và Khoai biết vứt bỏ, xem nhẹ bao giá trị bên ngoài phù phiếm để say mê những giá trị to lớn, cao đẹp hơn. Phù phiếm cũng vui mắt, đẹp mắt, thậm chí phản ánh cả trình độ văn hóa ăn mặc, trong đó có thẩm mĩ. Nhưng dẫu sao cũng phù phiếm! Vả lại, đa số nhân dân chưa có được cái phù phiếm vui mắt, đẹp mắt ấy! Lộc Biếc hiểu cô đang vượt lên mình để gần gũi với hai người bạn đậm tính nhân dân này, ngay giữa Sài Gòn này. Cô đã vượt, ngỡ đã vượt qua rồi, không ngờ lại phải vượt qua một lần nữa tại môi trường thành phố.
Thật ra, đó cũng chỉ là ý nghĩ đôi lần thoảng qua giữa họ như một làn khói xe bất chợt phun đen đường phố. Ngay sự so sánh bằng hình ảnh này cũng đã phóng đại!
Buổi chiều mùng một Tết rực nắng ấy, vẫn hồn nhiên, vẫn vui, giữa hai thị dân và hai nông dân Miền Nam, cũng là bốn giáo viên trẻ tuổi về từ vùng kinh tế mới, đã hiểu nhau tận gan ruột.
Chiều mùng hai Tết, một nhóm bạn cũ cùng lớp ở Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đến thăm Lộc Biếc. Phòng khách đang vui một cuộc nhậu nhỏ của những người đàn ông đứng tuổi. Những bạn Sài Gòn, bạn Bảo Nghĩa của Lộc Biếc ngồi quanh hai chiếc bàn nhỏ ghép lại đã được trải khăn trắng. Huyện và hai người bạn Quảng Trị của mình được quen thêm hai cô gái trẻ có tên Hoa Hồng, Hoàng Lan, cùng một anh bạn trai khác cũng cùng một lứa tuổi là Tiệp.
Lộc Biếc mở nắp hộp mứt, bánh, rót trà mời các bạn. Họ cảm động nhìn nhau sau hơn năm tháng xa cách, khi đã nguôi những câu chào hỏi mừng rỡ đến rối rít. Cô giới thiệu bạn cũ, bạn mới để những cái bắt tay được xiết chặt trên mặt bàn.
- Mình không ngờ Hoa Hồng lại lên tận Đắc Lắc để tỏa hương.– Lộc Biếc cười và nói –.
- Thì cũng như Lộc Biếc thôi.– Hoa Hồng nhấp một ngụm trà –. Lộc Biếc ở xứ trà dễ thành trà bạch mao thượng hảo hạng lắm, nhưng khô giòn, chắc chắn giòn đến kêu trong hộp!
- Đầu năm đầu tháng không chúc lành gì cả vậy! Ai lại chúc khô giòn, buồn thế! Lộc Biếc phải muôn năm tươi tắn mùa xuân chứ!– Tiệp nói, cũng với nụ cười –. Đã khô giòn, lại trong hộp nữa!
- Thôi, chớ trách. Hoa hồng bao giờ cũng làm đau tay thiên hạ chút đỉnh. Nhưng thế nào rồi cũng bị cắm vào ống vố của tượng nhà mồ ở Đắc Lắc!– Hoàng Lan lại trả đũa giúp với một tiếng cười rất giòn, tinh nghịch –.
- Năm nay gặp xui xẻo là tôi oán Hoàng Lan đến chết.– Hoa Hồng vờ dọa –.
- Trong lớp mình, Tiệp may mắn nhất.– Hoàng Lan nói, nhìn qua ba người bạn mới –. Các anh biết không, Tiệp cùng lớp với bọn này, bây giờ “đột xuất” lên chức cán bộ giảng dạy, tức là bậc thầy của bọn này rồi đó.
Tiệp lắc đầu:
- Thôi, Hoàng Lan cứ “dịch” các từ ngữ vượt ra ngoài từ điển vậy thì chết thiên hạ. Mình phải học thêm hai năm …
- Dạy đại học, mà bọn này chỉ mới có trình độ đại học, thế Tiệp không dạy bọn này còn gì!– Hoàng Lan cứ bướng –.
Chợt Tiệp nhìn Lộc Biếc:
- Các thầy nói, nếu Lộc Biếc đừng khăng khăng viết luận văn “Tự do sáng tác …” đó, chắc là được giữ lại trường rồi.
Lộc Biếc cúi đầu, tiếc ngẩn ngơ. Nếu được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy, cô đã được sống với ba má, hai em, đâu phải lặn lội tít tận Bảo Nghĩa đến thế. Được tiến thân về chuyên môn, vừa được ở nhà mình tại Sài Gòn, không còn gì tuyệt vời hơn! Cô đâu kẹt gì về lí lịch gia đình, chỉ hiềm một nỗi là không thể chấp nhận được làm một thanh niên cộng sản lại nghiên cứu khoa học thiếu trung thực, thiếu dũng cảm. Bây giờ, Lộc Biếc thấy mình hơi quá sách vở!
Lộc Biếc mỉm cười, không nói gì.
- Thôi, đó là một bài học khôn buồn rầu.– Hoàng Lan cười, cô quay sang những người bạn mới quen –. Ở Đại học Sư phạm Huế có vậy không các anh?
- Cũng vậy.– Nam gật đầu –. Lẽ ra một người bạn của anh Đỗ Khoai đây cũng ở lại trường, nhưng lại nghiên cứu mảng văn học Xô-viết, Liên Xô ấy, với chủ đề: “Người cộng sản phải là người trí thức trung thực; người trí thức trung thực trước sau gì cũng là người cộng sản, hay ít ra cũng là người cảm tình với chủ nghĩa cộng sản”. Và ngờ đâu cũng rơi vào trường hợp như Lộc Biếc.
- Lộc Biếc nghe anh Khoai nói chuyện này lâu rồi.– Cô thở dài, hơi ngao ngán –.
- Đề tài gọn hơn là thế này, “Hình tượng người cộng sản là người trí thức trung thực trong văn học Xô-viết”. Anh ấy dựa vào một định nghĩa về người cộng sản của Lê-nin và của thủ tướng Phạm Văn Đồng. Tôi thuộc Khoa Toán, không rành lắm các vụ ở Khoa Ngữ văn. Theo tôi, trung thực và trí thức là hai yêu cầu đúng đắn, nếu không sẽ trở thành người máy hay là kẻ phá hoại mà không biết mình phá hoại. Nhưng còn phải biết làm việc có tổ chức, có sự lãnh đạo của tập thể nữa. Chẳng vậy, trung thực và trí thức dễ dẫn đến vô chính phủ, bất phục tòng.– Khoai chợt mỉm cười thấy mình bỗng dưng hơi sính chính trị –.
- Như anh Tiệp đây là nhất, phải khôn khéo nữa.– Huyện cười, nhìn Tiệp –.
- Mời các bạn ăn chút mứt gừng xứ Huế với chút mứt me Sài Gòn cho đủ chua, cay, ngọt ngào.– Hoàng Lan mời –.
Cô dùng sáu cây xăm găm đủ sáu lát mứt đưa tận tay từng người, lại đưa thêm cho mỗi người một cây mứt me bọc giấy kiếng. Cô cũng tự chia một phần. Mọi người đều cười với trò đùa của Hoàng Lan.
- Vậy mà Lộc Biếc vẫn được chấm luận văn với kết quả là năm phiếu A trên sáu phiếu đó.– Hoa Hồng nói –. Phiếu thứ sáu lại phiếu trắng.
- Sau khi ra trường, mình còn biết có vài bạn lớp mình thành “nạn kiều” đó.– Hoàng Lan nói –. Lộc Biếc còn nhớ A Muối Lý Hoàng không? Nó qua Mỹ rồi, với cả gia đình, khi mặt trận biên giới phía bắc nổ ra.– Cô nhìn Lộc Biếc –. Và cả gia đình Lê Phạm Quân, bị trong đợt đánh tư sản, cũng vượt biên rồi …
- Các bạn hôm qua đến đây có nói,– Lộc Biếc gật đầu –, cùng một lớp với nhau, mỗi bạn một số phận rồi đó.
Huyện rót nước cho các bạn, lại đến bàn viết của Thủ, nhấc bình thủy châm thêm nước sôi sau khi bỏ thêm trà vào bình sứ. Hoa Hồng và Hoàng Lan lén nhìn theo Huyện, người vốn tạo ra một từ trường khá mạnh đối với phái nữ. Lộc Biếc nhác tinh ý thấy, thoáng cau mày, nhìn ra khung cửa mở.
Họ lại cười nói rôm rả, thân mật. Câu chuyện vẫn xoay quanh những bạn cũ, trường cũ, các thầy cô đáng kính của họ. Họ cũng biết các thầy cô vẫn có những khó xử của giới trí thức đại học trong thời cuộc nửa chiến tranh, nửa hậu chiến lúc này.
- Bây giờ Hoàng Lan dạy học ở đâu?– Huyện cười bằng mắt một cách kín đáo trước và sau câu hỏi –.
- Hoàng Lan chưa đi dạy, đang chờ ba đi học tập cải tạo về, có điều chẳng biết bao giờ về.– Hoàng Lan cười buồn –. Có lẽ Phòng Tổ chức trường đã “phân công” cho Hoàng Lan làm “công tác thăm nuôi”, thay vì đi dạy!
- Cũng lạc quan cách mạng đó chứ.– Huyện đùa theo mạch vui của câu chuyện –. Bây giờ làm gì hở Hoàng Lan?
- Bán hàng hóa vớ vẩn ngoài chợ, tập làm cô hàng xén.– Hoàng Lan đáp –. “Cô hàng xén” của Thạch Lam tại Sài Gòn!
Huyện nói tếu:
- Đúng là Phòng Tổ chức rất “sâu sát”. Bán hàng xén vừa có tiền thu nhập khá, vừa chủ động thời gian để làm “công tác thăm nuôi”, chứ đi dạy, khó khăn, bị động.– Huyện bỗng thấy mình đùa hơi quá mức, bởi anh hiểu sau câu đùa của Hoàng Lan là cả một nỗi đau –. Chẳng hiểu họ nghĩ thế nào …
- Họ sợ Hoàng Lan thù hận.– Hoàng Lan nói thẳng –.
- Chẳng lẽ trút hận vào học trò? Đáng lẽ phải “lấy chính nghĩa để thắng hung tàn, đem chí nhân mà thay cường bạo” (33) chứ.– Huyện lắc đầu, tỏ vẻ không hiểu nổi sự đời –.
- Trung thực và khoan dung! Không trung thực nên sợ. Không khoan dung, chuốc thêm thù hận.– Hoàng Lan cười chán chường –. Thật ra, mình có thù hận đâu! Mình và gia đình mình, bao người khác nữa, chỉ là nạn nhân của một giai đoạn lịch sử. Chính Phòng Tổ chức gieo cho mình ý tưởng về sự thù hận … Chẳng lẽ mình dạy gì, học sinh không hiểu sao!
- Nhưng ở các khoa tự nhiên, như toán, lí, hóa, sinh, cũng có nhiều người không được bổ nhiệm vì lí do lí lịch gia đình!– Khoai nói –.
- Thôi, xin van. Tết nhất, sao nói chuyện buồn quá trời!– Lộc Biếc nói –. Ừ, mà khơi nỗi đau để đời nhân hậu hơn.
- Thôi, mai mốt gì gặp nhau lại đi. Chắc cũng còn vài hôm nữa mới lên xứ trà chứ?– Tiệp hỏi –.
- Lộc Biếc định mùng năm.
- Không kiêng sao?
Lộc Biếc cười:
- Ngày kiêng là ngày dễ mua vé xe nhất.
Những tiếng cười vang lên. Họ xuống thang gác, gật đầu chào những người lớn tuổi đang uống trà. Hoàng Lan, Hoa Hồng, Tiệp chúc năm mới thêm một lần nữa và xin phép ra về. Họ tiễn chân nhau với nhiều câu chúc rất vui ở cổng nhà.
Chiều mùng ba Tết, trong khói hương nghi ngút của buổi cúng tiễn ông bà, tổ tiên đã về sum vầy mừng xuân với con cháu của gia đình Lộc Biếc, ba người bạn quá đỗi nhớ nhà. Cũng như chiều ba mươi, trong buổi cúng mời người thân quá cố về thăm, vui Tết, nỗi nhớ nhà trong tâm hồn họ chiều nay lại bồi hồi bổi hổi dấy lên, mênh mang và bâng khuâng.
Giữa bữa ăn chiều mùng ba, Nam với ông Điều nhắc lại kỉ niệm cũ về cây vú sữa, con chó bẹc-giê. Những chén rượu thắp lên ngọn lửa xanh biếc vui tươi trong câu chuyện. Lộc Biếc sững sờ nhìn Nam, người bạn tuổi nhỏ của cô! Họ vui mừng ngỡ như thuở xưa còn bé. Cuộc đời vẫn có những ngẫu nhiên cơ hồ thần thoại.
Đang nâng li rượu nhỏ lên môi, chợt ông Điều sực nhớ:
- Có nhiều người di tản sang Mỹ năm bảy lăm, một, hai năm gần đây, đã gửi thư về. Ông anh cả của cậu Nam đã gửi thư về chưa?
- Hình như ba cháu có nhận được. Cháu không rõ.
- Khi nào gửi thư qua, cho tôi gửi lời thăm nhé. Chả biết có còn nhớ tôi không. Thật ra, ông anh cả của cậu ở xóm này không lâu lắm, đâu một vài năm thôi.– Ông Điều nheo mắt xa xăm –. Ủa, mà sao ba cậu không phải đi học tập cải tạo?
- Dạ, cháu cũng không rõ. Chính quyền địa phương cho được miễn, lại đang làm hồ sơ xin đi theo diện ODP. (đoàn tụ gia đình) … Ba cháu ở lính, có điều chỉ làm hành chính dân sự …
Ông Điều lại gật gù như một thói quen.
- Tôi lại nhớ dường như cậu Nam có một đứa cháu, con của ông anh cả, cũng tên Nam, Nhị Nam thì phải. Tôi có làm chứng cho cháu ấy khi làm giấy khai sanh. Chả là theo thủ tục hồi ấy, khai sanh một đứa trẻ phải có đến vài nhân chứng.– Ông Điều chậm rãi nói –.
- Dạ, thưa chú, đúng rồi. Ông anh cả rất quý cháu, nên đặt tên cho con trai anh ấy là Nguyễn Trần Nhị Nam, tức là thằng Nam thứ hai của dòng họ. Cháu, tên vẫn gọn lỏn hai chữ.
Ông Điều vẫn gật gù.
Lộc Biếc và Nam nhắc lại một vài kỉ niệm cũ rất buồn cười của thời tấm bé xa xưa. Đã mơ hồ, không rõ nét! Duy việc có chung một năm học, cùng là láng giềng cũng đã đủ để bồi hồi, bâng khuâng. Cô cũng hiểu hình ảnh “lộc biếc” trong bài thơ mới đây của Nam chỉ là biểu tượng thơ ca, rất đỗi huyền ảo, biêng biếc xanh xưa. Lộc Biếc cũng không hiểu nổi Nam, và cả Khoai nữa, cả hai cứ mãi vun vào cho tình cảm giữa cô với Huyện! Cô hơi rối lòng mặc dầu chỉ uống một ngụm rượu nhỏ.
- Uống đi, các cậu.– Ông Điều nói –. Ngày mai mình lại phải đạp xe đi phát thư rồi. Một công việc không hề đổi khác suốt hai mươi ba năm, từ năm mươi lăm đến nay!
- Chú không bị chế độ ngụy “động viên” nhập ngũ sao, thưa chú?– Huyện hỏi –.
- Mình được miễn dịch vì gia cảnh.– Ông Điều cười khẽ –.
- Thế thì quá hạnh phúc.– Huyện nói –.
- Ừ, hạnh phúc, êm đềm thật. Đúng là thế. Bao người ao ước thế. Nhưng nhạt nhẽo vì quá suôn sẻ. Chỉ tranh thủ khi rảnh rỗi ở bưu cục để đọc sách văn chương. Nếu không có văn chương, chắc tâm hồn như không có … Thôi, cụng li này nữa đi, ai ít uống thì nhấp môi cho vui.
Ông Điều lại với tay cầm cây đàn, hát bằng một giọng trầm ấm, truyền cảm đến không ngờ, với bài thơ của bà Điều thuở xa xưa ông Điều trai trẻ đã phổ thành nhạc:
cao nguyên lòng hoài tháng giêng
rừng dâng lộc biếc cho thiêng tình hồng
em buồn, anh có thương không
tim bé bỏng, giữa mênh mông Phố Trời … (9)

Nam rùng mình vì xúc động. Khoai thoáng sững nhìn Lộc Biếc rồi cúi đầu lắng nghe.

28

Sáng nay bốn người bạn trẻ lại đèo nhau đi thăm bạn bè. Dắt xe đạp của Thuận qua đường sắt, Nam đứng đợi Khoai. Nhưng lần này Lộc Biếc lại bước đến bên Nam, cùng đứng chờ Huyện và Khoai với xe đạp của Thủ. Nam ngần ngừ, đưa mắt ngầm hỏi ý Huyện. Huyện vờ nhìn lãng.
- Đi, anh Nam.– Lộc Biếc đẩy nhẹ yên sau –.
Chẳng thể khác được, Huyện nói:
- Đi trước đi Nam. Hôm nay ông được nhẹ chân đạp một chút.– Huyện cố cười thành tiếng –.
Nam vội qua đường. Sài Gòn sáng sớm đã thấy nhiều xe cộ, tuy thời điểm khó khăn này, xăng dầu, phụ tùng xe khó nhập được, nên phần lớn là xe đạp trên đường phố. Cách ăn mặc của công nhân, viên chức cũng xuềnh xoàng đi. Có nhiều người đến cơ quan với một túi vải đựng hộp nhôm cơm, áo không bỏ vào thùng quần, chân mang dép nhựa hoặc giả da. Nam đèo Lộc Biếc, kéo ra trước chiếc mũ kép pi màu xám tro để đỡ chói nắng, nắng chói chang của ngày mùng bốn Tết. Theo đường cô chỉ, Nam thong thả đạp.
Huyện đèo Khoai phía sau. Khoai bỗng vui miệng:
- Thế là hết Tết rồi! Người ta đã đi làm lại.
- Ừ, xong một cái Tết.– Huyện vừa đạp vừa nói –. Đỡ nhớ nhà chưa Khoai? Ông có nhớ người yêu không?
- Có người yêu bao giờ đâu mà nhớ.– Khoai hơi ngượng, bỗng dưng thấy buồn –. Biết tỏng rồi còn hỏi!
- Đừng xạo nữa ông! Thơ tình ra rít vậy mà …
- Tình rất thật, còn người tình thì chỉ … chỉ là người mình yêu, chứ không phải biết mình yêu, và không yêu mình.– Khoai cố pha trò –. Con gái, biết bao nhiêu cô trên đời này, quá dễ thương, nhưng thương không dễ chút nào.
Huyện cười thông cảm:
- Thơ hay, đẹp trai …
- Cùng một gốc gác với củ khoai nữa! Nhà quê! Một làng cát trắng ven biển.
Hai người bạn bật cười, tuy hai tiếng cười khác nhau về ý nghĩa, nhưng rất chia sẻ với nhau.
- Ông ngốc! Mình phải truyền thụ cho ông khoa mục tán gái.– Huyện nói –. Đấy là nụ hôn. Tán tỉnh rồi, phải biết hôn. Nụ hôn là “á phiện”, là “ma túy” trong tình yêu. Ngày xưa các cụ chỉ cầm tay thôi, nhưng phải có vậy mới nhớ như nhớ thuốc lào! Nữa là “thuốc lào” được tăng cường độ thành “ma túy”! Phải tăng cường chất say trong nụ hôn. Có đối tượng, phải ép, phải tập. Đồng chí nữ có thể hết hồn, khóc bàng hoàng, rồi mê tít thò lò.– Huyện đùa –. Đồng chí Khoai hiểu chưa?
Cả hai lại bật cười, suýt va vào một chú bé bán báo qua đường.
- Hoàn toàn có lí. Có điều, khó lắm. Và mình thấy không lành mạnh lắm.
- Ông sợ lao phổi à? Sao không lành mạnh!
- Thôi, tôi chịu tiếng đạo đức giả. Tôi yêu kiểu cổ điển. Cổ điển là cổ lỗ sĩ nhưng cũng là mẫu mực.
- Thời buổi nó vậy, mình phải vậy. Ồ, con gái thời nay nó thế, mình không thế là cô đơn! Khoai vẫn ngốc! Trên trường có bao cô giáo trông cũng xinh, sao ông không yêu lấy một cô hở Khoai?
- Ông chỉ xúi dại. Yêu thì yêu, vẫn không thể thực hành khoa mục “nụ hôn ma túy” ấy được, dẫu tôi đọc ngàn cuốn sách, xem trăm bộ phim Phương Tây không kiểm duyệt các khoản hôn hít đó.
- Thế thì tôi không thể tin lời ông nói!– Huyện cười, tránh một ổ gà –. Chính tôi là học trò xuất sắc về khoản hôn hít ấy của phim ảnh, sách báo. Loại ấy thực chất là tởm nhưng rất thực dụng! Đừng ngây thơ cụ nữa, bớ thầy Khoai!
Khoai ngồi sau Huyện, chỉ mỉm cưởi, im lặng buồn.
Huyện dừng xe, suýt đụng vào vè xe Nam đang cỡi. Lộc Biếc nhìn sững vào khung cửa sắt đã khóa chặt bằng sợi xích, trên đó có tờ giấy hình chữ nhật với những dòng chữ đánh máy và khuôn dấu đỏ. Lộc Biếc không ngờ cô bạn thân cùng gia đình đã vượt biên, nhà cửa bị niêm phong.
Lộc Biếc hỏi cô bé khoảng mười tuổi đang nhảy lò cò trên vuông sân nhỏ. Cô bé nhìn với cái nhìn dò hỏi, một lúc mới trả lời:
- Cả nhà bị bắt rồi, cô ạ. Một tháng rưỡi rồi …
- Trại nào hở bé?– Lộc Biếc đã bình tĩnh lại –.
Cô bé lắc đầu, rồi lại nhảy lò cò một mình. Một người già, có lẽ là bà của cô bé, lại tần ngần, cuối cùng ngồi lên yên xe.
- Bạn thời trung học của em bị bắt rồi. Vượt biên làm gì không biết! Nó muốn học đại học bên ấy rồi đó.– Lộc Biếc buồn buồn nói –. Thôi, mình đến quán cóc, chỗ hẹn với nhóm của Tiệp đi.
Đạp xe đi một đỗi, Nam nói:
- Mình đề nghị với Tiệp chỗ ấy, để gặp một số anh em luôn. Mình cũng có một vài người quen hay uống cà phê chỗ đó.
Lộc Biếc trầm ngâm hẳn. Bốn người bạn trẻ đạp xe đèo nhau qua một vài con phố dài. Họ dừng lại bên một vỉa hè. Nhóm của Tiệp vẫn chưa thấy tới. Vừa dựng xe, Nam mỉm cười gọi tên một nhà thơ vốn là người khá quen thân với Nam và Khoai ở Huế, đáp lại cái đưa tay chào.
Huyện mượn ghế ở bàn khác cho Lộc Biếc. Bốn người bạn trẻ ngồi ráp vào chỗ ba người đã ngồi từ nãy giờ. Nam thấy ba li cà phê pha bắp với hạt cau rang đều vơi quá nửa.
- Nam, Khoai cùng hai bạn đây mới ở Huế vào?– Nhà thơ Phan Huy Văn tỏ vẻ vui mừng –.
Nam trả lời, giới thiệu Huyện, Lộc Biếc. Và những người bạn trẻ mới biết qua anh Phan Huy Văn về hai người đàn ông khoảng gần bốn mươi tuổi kia. Đó cũng là hai người làm văn nghệ. Nam biết, trong đó có một người ở Hà Nội mới vào công tác trong này, khá quen tên.
- Rất vui được gặp hai anh.– Nam nói –. Em đã đọc của hai anh trên báo khá nhiều, bây giờ mới gặp.
Bốn li cà phê bốc khói được bưng tới từ một chiếc xe nước thường thấy dọc lề đường.
- Vào đây lê la kiếm sống.– Anh Phan Huy Văn trả lời câu hỏi của Khoai –. Ở ngoài mình buồn quá. Nhiều anh em ở các tỉnh về đây cũng nhiều, dựa lưng nhau mà sống.
- Lại làm Di-va-gô (Zhivago) của Pa-téc-nác (Paternak), phải không anh Phan Huy Văn?– Lộc Biếc làm quen –.
Anh Phan Huy Văn hơi sựng người, rồi mỉm cười:
- Nếu không phải là cô Lộc Biếc hỏi, có lẽ tôi đã giận đùng đùng rồi đó.– Anh nói với giọng khôi hài –.
- Mỗi người cứ là mình, dù lột xác cũng là mình.– Anh Cao Quốc với giọng Hà Nội –. Nói thế thì …– Anh mỉm cười, bỏ lửng câu nói, rồi tiếp –, vẫn là mình với một chất mới.
Lộc Biếc đỏ mặt, nhưng vội đáp, tuy biết chỉ đùa vui:
- Em xin lỗi nhé. Nhưng hoàn cảnh lịch sử na ná nhau, tâm trạng một số nhà văn Nga, kể cả Mai-a, Ê-xê-nhin, Bơ-lốc (Maiakovski, Exênhin, Blok) cũng có nét chung với các nhà văn, nhà thơ mình bây giờ, hoặc thời bốn lăm, cả thời năm tư … Vâng, Mai-a vẫn giữ phong cách vị lai như trong “Đám mây mặc quần” .
Anh Phan Huy Văn bỗng dịu hẳn, nhìn Lộc Biếc với cái nhìn thân thiện. Anh Võ Lâm gật gù:
- Làm nhà thơ có trăm cái lưỡi, chán thật. Đi đến nơi này, gắn vào lưỡi này, tới với chỗ kia, gắn vào lưỡi kia! Không thể tưởng tượng nổi!– Anh Võ Lâm lắc đầu –. Nói có nhà văn Hà Nội mới vào đây, rằng là, xin thưa, dân Hà Nội họ chửi nhà văn nước mình thế đấy. Chắc các bạn đã nghe cái tiếu lâm truyền khẩu đó.– Anh Võ Lâm nhìn Nam –. Tôi cũng có đọc của bạn trên báo. Chính anh Cao Quốc cũng không ngờ bạn viết được như thế! Sao lại viết được như thế nhỉ!– Giọng Bắc pha Nam của anh Võ Lâm bỗng cay chua hẳn –. Tôi xin lỗi nhé. Tôi vốn hơi điên.– Anh Võ Lâm vuốt mái tóc dài xõa ngang vai –.
Nam nóng người, vẫn cố bình tĩnh cúi đầu. Khoai lúng túng, muốn gỡ cho Nam và cả mình.
- Ruộng đất, lúa khoai, đánh ngoại xâm,– Nam mỉm cười, nhưng giọng hơi đanh lại –, và cả sự thống nhất dân tộc! Đó là những gì rất nghìn đời, chỉ với tiếng thơ mới của cảm nhận mới. Có gì đâu anh! Chỉ là hòa mạch truyền thống.
- Thôi, ông điên, ông gàn! Mới gặp bạn trẻ, sao căng thẳng thế?– anh Phan Huy Văn cười đấu dịu –.
- Thử gân nhau một chút mà, Nguyễn Trần Nam với Đỗ Khoai bỏ qua nhé, hai bạn thứ lỗi nhé.– Và anh Võ Lâm chìa tay ra –.
Những cái bắt tay hơi gượng gập.
Nam chẳng hiểu sao anh Võ Lâm lại dám bất nhã đến thế. Cả mấy người ngồi cùng bàn cũng cảm thấy quá khó chịu.
Anh Võ Lâm có lẽ muốn xõa tóc như Cao Bá Quát trong “Tài tử đa cùng phú” hay như một Ta-go (Tagore) của Ấn Độ, Nam cũng chẳng rõ. Thật ra, hồi nãy, Nam nói xã giao thế thôi, chứ chưa bao giờ đọc được cái tên Võ Lâm trên báo, cả trước bảy lăm lẫn sau Ngày Thống nhất. Có lẽ anh ấy mới đổi tên, đổi bút hiệu? Chỉ có anh Cao Quốc, anh Phan Huy Văn là hai người Nam đã đọc được những dòng chữ của tâm hồn họ. Lộc Biếc, Huyện đều muốn nói một câu gì đó để anh Võ Lâm hiểu, không phải ai cũng là nhân vật phản động bị cùm, trên chuyến tàu chở gia đình bác sĩ Di-va-gô về miền quê vì cái ăn, cái sống và thơ, không phải ai cũng lăm lăm vượt biên …
Bỗng dưng, anh Võ Lâm khóc òa, nước mắt ràn rụa, tức tưởi nấc. Những người ngồi quanh cũng ngơ ngác. Chưa ai kịp nói gì, anh Võ Lâm đã rút tiền đặt trên bàn, lắp bắp “xin lỗi, xin lỗi”, vái mấy vái, rồi cúi đầu, vừa đi vừa khóc.
- Không biết có chơi thuốc kích thích hay điên thật? Dạo này, Võ Lâm sao lạ quá đi mất.– Anh Phan Huy văn lẩm bẩm, âu lo –.
- Thôi, quên đi. Đó là một tay cuồng chữ.– Anh Cao Quốc thở dài, phủi tàn thuốc lá trên quần bộ đội đang mặc –.
Lộc Biếc nhìn theo dáng người rất nghệ sĩ của anh Võ Lâm, bỗng thấy thật tội nghiệp. Con đường với hai hàng cây xòe tán giao nhau rợp bóng râm rất đẹp, trên một vỉa hè có một người cuồng chữ vô danh cúi đầu khóc tức tưởi đếm bước chân mình. Lộc Biếc tin nhà thơ Việt Nam không dễ tự sát như nhà thơ Nga. Cô cứ nhìn theo anh Võ Lâm.
- Ban đầu, ở Trường Sơn mới về, gặp Võ Lâm và một số đông người khác, tuy số đông này không điên như Võ Lâm, mình cảm thấy phũ phàng thật. Mình cứ ngỡ nhân dân mong đợi Ngày Giải phóng lắm. Thật buồn.– Anh Cao Quốc chua xót nói –.
- Hồi đấu tranh ở Huế, mình cũng không ngờ hiện thực lại thế này. Nhưng đâu phải ai cũng như Võ Lâm, và khó khăn cứ mãi như bối cảnh trong “Bác sĩ Di-va-gô” …– Anh Phan Huy văn cũng bỗng chán chường –.
- Tâm trạng không phải “vì nhân dân, quên mình”, mà vì nhân dân đã lãng quên mình, có lẽ thế sao?– Huyện đùa –. Chính bọn em ở vùng KTM.(34) về, cũng thoáng có ý nghĩ thế. Thành phố cứ ăn chơi, cười nói, hát hò, mùi mẫn … Ngày xưa, lính ngụy đi hành quân, về phố cũng phát điên, tưới rượu nổ súng vào nhau tung tóe … Thây kệ ấy mà … Đấy là triệu chứng nhẹ của chủ nghĩa công thần?
- Đó là nói cho vui! Người ta vẫn làm ăn cật lực đó chứ.– Lộc Biếc nhìn hai người đàn ông đứng tuổi, mỉm cười, ngắt ngang lời Huyện, sợ anh làm mích lòng hai người mới quen –.
Ba người bạn của Lộc Biếc – Hoa Hồng, Hoàng Lan và Tiệp – dừng xe bên lề vẫy. Lộc Biếc khẽ xin lỗi, chạy ra với bước chân chim sáo. Cô sực nhớ mình đã là cô giáo, Lộc Biếc bước chậm lại.
Một chốc, những người bạn trẻ bắt tay anh Cao Quốc và anh Phan Huy Văn.
Trong nắng Tết, cả nhóm bảy người dự định đạp xe đến thăm những nơi quen thân, ân nghĩa khác của Lộc Biếc. Sau một thôi đường, hãm xe, Nam bảo Lộc Biếc và cả nhóm đứng lại đợi, Nam phải quay lại trả tiền cà phê. Trả xong, Nam nhét tiền vào túi quần din (jean). Hai người đứng tuổi hồi nãy hơi ngạc nhiên, rồi chợt hiểu ra, họ đến bắt tay Nam, hẹn bao giờ về lại Sài Gòn, nhớ tìm gặp nhau. Nam nghĩ anh đang bắt tay hai con người có phong cách riêng, và anh tin chắc, “phong cách, ấy là con người [thật]”, nhất là trong văn chương.
Những người bạn trẻ lại đạp xe cùng nhau đến thăm một vài thầy cô giáo dạy trung học, đại học, những người bạn từ các tỉnh xa về ăn Tết. Không khí Tết vẫn vui tươi, cả rộn rã nữa, trong các nhà thân quen, ân nghĩa, mặc dầu ngoài đường phố ngày thường đã trở lại.
Ở hành lang lầu hai của một chung cư, họ tình cờ gặp một người, khiến những bạn Sài Gòn của Lộc Biếc đứng lại thân mật chào hỏi. Lộc Biếc như đứng sững. Lát sau, họ chia tay anh bạn mới gặp ấy.
- Lộc Biếc!
Mới xuống mấy bậc cầu thang, nghe tiếng gọi, cô đứng lại.
- Bọn mình xuống chỗ gửi xe đợi nhé. Cứ chuyện trò đi.– Hoàng Lan nói với nụ cười thông cảm, tinh nghịch –.
Đợi những người bạn khuất sau cầu thang, người con trai ấy lại kêu khẽ tên cô:
- Lộc Biếc! Dẫu sao … Lên lại đây cho anh hỏi thăm thêm một chút.– Anh ta nói với giọng vừa xúc động, vừa thân yêu –.
Không cách nào khác, Lộc Biếc bước lên, tựa vào lan can, nhìn xuống đường phố đang chói chang nắng. Cô cố kìm lại một tâm trạng đầy mâu thuẫn, vừa muốn thoát hẳn kỉ niệm, vừa quyến luyến những xao động, run rẩy, bâng khuâng và tha thiết một thời.
- Lộc Biếc! Rất mừng được gặp lại …
- Em cũng không ngờ …
Hai người bỗng im lặng, bối rối. Người con trai nhìn vào những sợi tóc mai xinh đẹp, đen mướt, và nửa gương mặt hồng tươi với sống mũi thẳng một thời anh yêu thương.
- Anh nói gì, nói đi. Em phải về với các bạn.
- Hơn một năm rồi, hai cái Tết rồi, Lộc Biếc vẫn thế thôi sao?
- Vậy là sao, anh Trường? Em vẫn thế.
- Anh cũng biết, em không luyến lưu gì nữa …
- Thôi, chuyện cũ, quên đi. Em cứ ngỡ anh ra nước ngoài rồi chứ.
- Bực mình, nói vậy thôi. Anh đã đi làm ở một xí nghiệp trong thành phố.
- Anh không đi dạy?
- Dạy xa quá … Lại mất hộ khẩu Sài Gòn …
- Thôi, em xuống, các bạn chờ.
Lộc Biếc xoay người định nhớm bước. Trường vội nói:
- Khoan đã.– Trường nhìn vào đôi mắt đen láy của Lộc Biếc, chợt tiếc nuối lạ lùng –. Anh muốn mời em đi chơi.
- Thôi, đừng nữa. Thôi là thôi.
- Chẳng lẽ, đã là cô giáo, em vẫn như thời sinh viên?
- Vẫn vậy. – Lộc Biếc trả lời cộc lốc, nhưng thấy không đành lòng, cô lại nói –. Vẫn vậy thôi, anh Trường à.
Trường cắn môi, bất giác lại sờ tay lên má của mình. Cảm giác nóng ran, choáng váng, tỉnh người bởi cái tát từ bàn tay Lộc Biếc như vẫn còn đó. Trường buột miệng:
- Anh vẫn nhớ …– Trường kịp kìm lại –.
- Thôi, quên đi. Em xuống đây.– Cô không kịp hiểu –.
Và Lộc Biếc dứt khoát bước xuống cầu thang. Với cô gái nào khác, anh đã bước theo, ôm ghì vào đôi tay mình với một cái hôn chiêu phục. Trường bỗng hiểu rõ một lần nữa, anh đã mãi mãi đánh mất một đóa sen đã hóa ngọc với làn hương trinh khiết không hề vơi nhạt. Anh nhớ bài thơ “Cái tát của đóa sen hồng” ai đó viết.
Lộc Biếc đã bước xuống lề đường, mỉm cười rất tươi với các bạn rồi khẽ xin lỗi.
Phần nào, Khoai đã hiểu, tuy anh tự trọng, không tò mò hỏi ba người bạn Sài Gòn của Lộc Biếc. Và bởi chỉ hiểu phần nào, bởi tự trọng, Khoai nãy giờ bỗng buồn đến thắt lòng. Khoai thừa biết, yêu thì phải tỏ tình, dù bằng một cành thoa, một bản đàn, bằng cách tìm dịp gần kề, như trong Truyện Kiều cổ điển, nhưng không bao giờ Khoai có thể tỏ tình với Lộc Biếc. Khoai hiểu, là con trai, anh còn kém xa cô gái Thúy Kiều! Nhưng Khoai cũng thừa biết, mặc dầu người con trai anh mới gặp ở hành lang lầu hai làm anh đau thắt lòng, vẫn không phải là người làm anh lấn cấn.
Những người bạn trẻ đạp xe đi trong nắng.
Ngồi sau Nam, Lộc Biếc tự bảo, đâu phải ai cũng như Trường, đụng một tí là đòi vượt biên, và đâu phải số người vượt biên, xuất cảnh là số nhiều … Nhưng sao Lộc Biếc vẫn bâng khuâng lạ lùng … Dẫu sao, Đất nước vẫn đang mang một nỗi đau, và cô không thể không đau nỗi đau riêng …

29

Tạm biệt thành phố Hồ Chí Minh từ sáng sớm với những giọt nước mắt của Lộc Biếc, nhóm giáo viên trẻ lên đến bến xe Đa Công vào lúc giữa chiều với nụ cười gượng gạo của cô. Sau một học kì thích nghi với vùng đất mới khai hoang lập ấp, về lại Sài Gòn, sống giữa yêu thương, chăm sóc của gia đình, tình thân bè bạn, những vui buồn của đô thị, Lộc Biếc hơi ngã lòng. Bao tính toán thực dụng, vun quén cho cuộc sống riêng khiến Lộc Biếc không thể không nhận ra sự chịu đựng gian khổ của bao người cho Đất nước chỉ chuốc lấy thua thiệt cho bản thân. Lộc Biếc khóc vì niềm cay đắng đó, đâu chỉ bởi thương yêu, thân thiết. Với nụ cười gượng gạo lúc này, Lộc Biếc chợt quá ngạc nhiên cho bao nhiêu tiếng cười trong sáng của chính cô, của bạn bè tại Bảo Nghĩa. Cô đã bắt đầu nghĩ ngợi về những gì đã làm nên số phận chung, thân phận riêng.
Ngồi sau yên xe đạp do Huyện chở, Lộc Biếc cố suy nghĩ về học sinh và trường Bảo Nghĩa. Nhưng rồi Lộc Biếc vẫn thấy nỗi cay đắng ấy đôi khi lại xoáy vào lẽ sống cao đẹp cô được hình thành bởi truyền thống dân tộc, bởi nhà trường từ tiểu học đến đại học.
Trước khi lên xe về lại thành phố Hồ Chí Minh, hai chiếc xe đạp của Nam và Khoai được gửi lại nhà Hoán tại Đa Công. Sau khi ghé thăm, chúc Tết ba mẹ Hoán, với hai xe đạp ấy, họ vào Bảo Nghĩa. Hoán đạp xe song song xuống dốc, dắt xe dẫn bộ song song lên dốc, thỉnh thoảng hỏi chuyện Sài Gòn và mỉm cười. Anh cũng như ba người bạn kia, đang cảm nhận được phần nào tâm trạng của Lộc Biếc, có điều Hoán không thể nào hiểu được niềm cay đắng ấy của cô.
Bỗng một chiếc xe lam ba bánh vào ngã ba Đa Rai, chỗ rẽ vào Đa Thắng, Bảo Nghĩa, với tiếng máy rú gào nặng nhọc lên dốc từ phía sau chạy tới. Đang dắt xe đi bộ, họ nhìn vào khoang xe lam bên cạnh. Tốc độ chậm của xe lam cho họ đủ nhìn thấy một cô gái da trắng hồng, tóc hơi hoe vàng với nét mặt hơi lai Tây đang ngồi tì tay trên thanh sắt cuối băng ghế. Hoán hơi ngạc nhiên. Chợt hiểu ra, anh cười rạng rỡ chào:
- Ồ, Ka Kring! Ka Kring nhận quyết định về đâu?
Cô gái lai ngoảnh nhìn Hoán,vui vẻ:
- Bảo Nghĩa! Phải trường anh không?
Hoán nói to và gật đầu lia lịa vì sợ tiếng máy xe đã khá xa át tiếng trả lời của anh:
- Đúng rồi! Đúng rồi!
Một người con trai ngồi đối diện với Ka Kring cùng cô đưa tay vẫy chào. Xe lam đã lên đỉnh dốc. Họ vẫy chào hai đồng nghiệp mới. Xe lam khuất vội sau dốc. Nam buột miệng hỏi ngay:
- Ka Kring? Tiếng K’Hor hay tiếng Pháp vậy Hoán?– Nam tách âm –. Ca Cơ Ring, nghe hay quá!
- Cô ấy người Chiau Mạa, cũng gần gũi với người K’Hor đấy.
Nam xúc động, anh hỏi ngay, trước khi câu hỏi giống y của anh kịp thốt ra từ các bạn:
- Lai Tây, phải không? Đâu phải bạch tạng như K’Bẻo!
Họ cùng ngồi lên yên xe đạp để xuống dốc. Hoán nói:
- Không rõ. Bố mẹ hoàn toàn Chiau Mạa. K’Ring là tên một loài chim biển, mỗi năm từ duyên hải bay lên Nam Tây Nguyên vào mùa xuân hay mùa hạ gì đó.
Hoán với các bạn đang ghì chặt ghi đông để lao xe xuống dốc. Tiếng gió bên tai vù vù. Nhưng cây cà phê nở hoa trắng muốt, gợi lại mùi hương thơm ngát còn đọng trong trí nhớ Lộc Biếc, khiến cô ngỡ làn hương ấy đang tràn vào khứu giác. Hoa, hoa và hoa cơ hồ đang chuyển động trước mắt. Sự mờ nhòa của các cành hoa cà phê hai bên đường, cùng bạt ngàn trà lấm tấm hoa trắng, khiến cô lại liên tưởng đến tuyết phủ với mùa đông hàn đới trong sách và phim ảnh. Bất chợt thấy cặp kính trắng gọng thép màu trắng bạc của Nam, Lộc Biếc sực nhớ đến X-tren-ni-kốp (Strelnikov), chàng sinh viên tranh đấu chống Sa hoàng phong kiến rồi trở thành vị tướng hồng quân Nga, xuất hiện trên chuyến tàu tốc hành đặc vụ trong phim Vĩnh biệt tình em (một bộ phim nguyên có nhan đề “Doctor Zhivago”). Ấn tượng nhất là hình ảnh X-tren-ni-kốp với cặp kính trắng gọng thép rơi trên tuyết trắng một mùa đông Nga, thuở Cách mạng Tháng mười 1917.
Ba chiếc xe đạp ráng lên một quãng dốc cho hết đà rồi đứng lại. Lộc Biếc nhảy xuống xe.
Hoán vừa dắt bộ vừa kể về Ka Kring:
- Các bạn biết không, bố mẹ Ka Kring ngày trước là giúp việc và là tài xế của một chủ đồn điền lai Pháp. Mặc dù lấy nhau từ trẻ đến lúc người đàn bà đã quá tuổi sinh nở, họ vẫn chưa có con. Khi gia đình Pháp này về nước, thấy hai người Chiau Mạa vô sinh rất quyến luyến cô bé Ka Kring, nên họ cho hẳn Ka Kring làm con nuôi. Họ bán lại tất cả sản nghiệp, chỉ chừa một ngôi nhà nhỏ, một mảnh vườn cà phê, một ít sào trà cho Ka Kring cùng cặp vợ chồng Chiau Mạa. Do đó Ka Kring trở thành cô bé Chiau Mạa da trắng. Đến khi phá bỏ ấp chiến lược dồn dân, bố mẹ Ka Kring phải về lại buôn cũ, nên họ đành bán cơ ngơi ấy cho một người Kinh, gửi luôn Ka Kring cho gia đình người Kinh ấy. Họ nghĩ, vậy sẽ thuận lợi cho Ka Kring, cả cho họ, vì nhiều lẽ. Nhưng hai vợ chồng Châu Mạ đó thỉnh thoảng vẫn ghé thăm Ka Kring ở Đa Công. Vậy đó …
Nam hỏi với niềm xúc động chính Nam cũng không ngờ:
- Có nhiều chi tiết vô lí thật! Ừ, mà cuộc sống vẫn có nhiều điều vô lí hơn thế nữa! Dẫu sao, mình vẫn rất vui khi có một đồng nghiệp như thế. Chắc cô ấy từ trường nào chuyển về?
Hoán “à!” một tiếng dài:
- Sắp tới, có thể các bạn sẽ được chuyển về trường cấp ba trung học, chẳng phải dạy ở cấp hai cơ sở nữa. Khóa cao đẳng sư phạm đầu tiên của Đà Lạt đã ra trường trước Tết. Giáo viên cấp hai về các huyện nhiều lắm, từ học kì hai này. Ka Kring và có lẽ, cả anh bạn ngồi đối diện với cô ấy trên xe lam đều thuộc diện đó. Ka Kring mới tốt nghiệp, được phân công về trường mình đấy.
Huyện vui ra mặt, buột miệng:
- Thế thì tốt quá! …– Huyện kịp kìm lại –.
Nam, Khoai, Lộc Biếc cũng khấp khởi mừng thầm, rồi cũng không rõ là vui hay buồn nữa.
Nam bâng khuâng suốt chặng đường còn lại. Lộc Biếc nghe chớm lên trong lòng niềm hi vọng được dạy ở thành phố Trên Trời cao, cũng nghe buồn buồn là lạ trong lòng. Khoai âu lo trước một bước ngoặt mới, song không thể không vui.
Dọc đường, Hoán nói Hoán sẽ thi lại vào Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh với diện cán bộ, vẫn được hưởng lương, vào kì tuyển sinh cuối năm học này. Phòng Giáo dục đã ra thông báo, Hoán ở Đa Công nên nắm rõ thông báo này trước khi được phổ biến về các trường. Họ chia sẻ niềm vui với nhau. Niềm vui của Hoán hơi nghèn nghẹn.
Về đến nhà tập thể, họ vui mừng bắt tay những người bạn của mình, đặc biệt là Ka Kring và Nghệ – tên người ngồi đối diện với Ka Kring trên xe lam hồi nãy.
Ka Kring đẹp đến bàng hoàng, nét đẹp Á nhiều hơn Âu. Nam vờ nhìn thoáng, nhưng khá kĩ, thấy đây không thể là cô gái mang chứng bệnh của học trò anh được. Mã di truyền về sắc tố da, mê-la-nin (mélanine), nơi cô là của các chủng người hình thành hàng vạn năm trước ở vùng hàn đới ít ánh nắng chói chang, kết hợp với mã di truyền Á – Phi nhiệt đới, vàng và nâu đen, cũng do sắc tố da dưới ánh sáng mặt trời rực rỡ. Ka Kring là một cô gái khỏe mạnh, sống mũi dọc dừa châu Á, đôi mắt nâu trong vắt của Trung Đông, da trắng hồng lấm tấm tàn nhang trên gò má châu Âu, với tóc nâu hơi hoe vàng, không đen mượt hoặc xoăn tít Á – Phi.
- Ka Kring dạy ngữ văn Việt Nam sao?– Nam mỉm cười thân thiện và rung động –. Mới nghe Hoán nói Ka Kring vẽ tranh đẹp nữa.
- Vâng, Ka Kring học văn – sử, có vẽ chút ít …
Nam rúng động bởi nghe được một giọng con gái với âm sắc Bắc pha Nam, hình như thoang thoảng hương và ánh sáng của trăng cao nguyên trong đó, từ đôi môi hình trái tim có nét Phi châu, đỏ mọng.
- Tôi thất nghiệp rồi!– Nam đùa, mỉm cười chào Ka Kring vì thấy đứng lâu ở gian nhà nữ không tiện.– Rất vui mừng có người cùng chuyên môn –. Nam lại nói –. Sẽ gặp lại nhé. Rất vui, Ka Kring! Thất nghiệp, cho học vẽ với nhé!
Nam lại chuyện trò làm quen với Nghệ để Nghệ bớt bỡ ngỡ. Nghệ tốt nghiệp khoa toán – lí. Thế là gánh nặng của Khoai đã nhẹ bớt một nửa. Khoai vui mừng vì ít ra, trước mắt, anh sẽ có thì giờ để viết truyện ngắn.
- Nghệ người Đà Lạt chính gốc?– Nam hỏi –.
- Tạm gọi như vậy. Mình thuộc hậu duệ những người đi xây dựng vùng kinh tế mới ở Đà Lạt,– Nghệ cười, với nụ cười có hai chiếc răng giả –, nói theo danh từ bây giờ.– Nghệ tiếp –. Dòng họ mình lên Đà Lạt lập nghiệp từ cuối thế kỉ mười chín kia, lúc Đà Lạt còn là rừng.
Lát sau, anh Quỳnh, anh Giảng, cô Phước về tới. Họ vừa đi chúc Tết Chi bộ, Ủy ban xã, Ban Quản trị Hợp tác xã Bảo Nghĩa. Hai giáo viên mới bước vào văn phòng để trình diện. Cô Lụa cũng vào báo cáo nội dung được tập huấn.
Bên gian nhà nữ, Lộc Biếc với Suối Vui, Đồi Hương, Cam Ly, tam Thu và nhị Xuân, cùng cô Lài, cô Trâm, cô Nhân, đang nhấm nháp bánh mứt mang đến. Họ vui với nhau chút Tết muộn, với thói quen ăn quà vặt của con gái.
Nam, Khoai, Huyện đều muốn hỏi anh Giảng ngay về tình hình tổ chức ở Phòng, nhưng thấy bất tiện, và họ tự bảo với nhau cái gì đến sẽ đến. Họ cũng lo sợ phải chia tay nhau khi mỗi người về một trường cấp ba, phổ thông trung học. Cho dù không như ý muốn trong hiện tại, bởi ai cũng muốn tiến thủ, nữa là về đúng hệ được đào tạo để giảng dạy, tuy nhiên, họ vẫn thấy những ngày bên nhau ở Bảo Nghĩa này đễ thương biết bao, và những học sinh đầu tay của họ, biết bao là yêu mến!
Họ bàn với nhau sẽ đến thăm gia đình anh Ruộng, gia đình cô Xinh, cả gia đình Hạ ngay tối hôm ấy.
Tối ấy, với hai người bạn mới, Ka Kring và Nghệ, nhóm giáo viên trẻ đi thăm Tết các đồng nghiệp người địa phương, nhân tiện ghé nhà một vài phụ huynh.
Khi đi về lại nhà tập thể, Nam cứ nhớ mãi cái lườm mắt của chị Huân lúc anh Ruộng chỉ lên bàn thờ gia tiên nhà anh. Trên đó, cũng có hương, hoa, quả và phẩm. Phẩm là các thứ vàng mã đủ loại còn ở dạng cổ mà có lần Nam muốn được cách tân, mĩ thuật hóa, để đậm đà bản sắc dân tộc hơn nữa. Nam cũng cảm động vì anh Ruộng còn dán cả tấm bản đồ thế giới với hình Tổ quốc màu đỏ nổi bật lên vách gỗ cuối bàn thờ. Nam đoán anh Ruộng vừa ra Đa Công mua về, trong những ngày áp Tết, bức bản đồ nhân loại ấy.
Khoai vẫn hỏi anh Ruộng bất chấp cái lườm gần như quắc mắt của chị Huân:
- Anh không thờ bàn thờ ngoài trời với ý nghĩa của bức bản đồ địa lí nhân văn, chỉ gộp vào đây luôn sao?
Anh Ruộng đưa một tay lên miệng với tiếng “suỵt” khẽ, nhầm bảo, đừng nói nữa, đừng khiêu khích chị Huân, bà ấy là đảng viên trung kiên từ năm mười tám tuổi.
Chị Huân như bùng nổ bởi cuộc “chiến tranh lạnh” từ lâu nay:
- Nửa đời làm cách mạng bỗng dưng cơ hội, phản cách mạng như ông rồ! Các thầy cô đừng bắt chước nghe.
Nhóm giáo viên trẻ, có người nóng người và buồn cười, có người ngơ ngác, chợt hiểu ra một nửa vấn đề.
Cũng trên đường về nhà theo ánh đèn pin của Lộc Biếc, Nam bỗng dưng nhớ lóng tre chẻ ra làm bốn quản bút của bé Ngoan. Anh nhớ câu nói hôm đầu năm của cô Lụa và Hoán, lúc ngồi soạn giáo án tập thể ở chái đầu hồi: Giống nhau quá, một phân bào thành hai, hai phân bào thành bốn. Và bây giờ thành tám rồi sao? Không, đó chỉ là câu nói đùa vua vơ, câu đà theo cũng đùa vu vơ. Nam cũng chỉ muốn mỗi người hãy cứ là mình. Còn sự sống, theo một định nghĩa cổ điển, mãi là một tiến trình trao đổi chất suốt lịch trình chung về tiến hóa, phát triển, kể cả về mặt tinh thần, trong đó có tâm linh – văn hóa – lịch sử, hiểu theo nghĩa biện chứng duy vật.
Và Nam nhớ cả câu hỏi của bé Ngoan nữa, khi anh đã ra đến đầu ngõ còn bị bé Ngoan cầm tay giữ lại:
- Thầy ơi, nhỡ có bề gì, ba em còn được mẹ kị giỗ, tưởng niệm không, thầy ơi?
Nam đã kịp nói khẽ với riêng Ngoan:
- Sao em cứ nghĩ mãi chuyện ấy! Kết quả thi học kì một vẫn chưa bằng các năm! Hãy đừng bận tâm. Học là chính.– Nhưng Nam biết không thể động viên suông mà được, anh tiếp –. Ba em cũng là một trong hàng triệu người vốn là nạn nhân của một giai đoạn lịch sử. Người đã chết, ai còn hẹp lòng với họ làm gì. Ba em đã chết, sao lại không được tưởng niệm, kị giỗ như một con người đã sống, như một nạn nhân lịch sử. Xét về tình người, mẹ và em có quyền đó trong nhà bố dượng, mặc dù mẹ đã tái giá. Hơn nữa, bên nội em đâu phải hết người! Cũng có thể thờ di ảnh, bài vị ba em ở gian phụ của nhà thờ họ tộc. Cứ yên tâm nghe Ngoan!
Bé Ngoan không khóc như những tháng trước lúc chạm đến điều này. Có lẽ bé Ngoan đành cam chịu với tình trạng hiện thời của mẹ. Nỗi niềm cay đắng vẫn thường trực giày vò cô bé đã vơi, lắng vào góc khuất nào trong tâm thức, với sự hòa giải của thầy Nam, cả của chính cô bé, trước thực trạng không tài nào cưỡng chống được. Cái thực trạng “nhỡ có bề gì” là sự tái giá của mẹ. Ấy là cả một thảm họa, cô bé Ngoan đành cam lòng chấp nhận!
Cô bé Ngoan, có họ ngoại xa đến mười đời với thầy giáo Nam, sao cả lo đến thế! Và cớ sao chị họ xa đến chín đời của Nam là cô giáo Xinh lại đổ đốn đến thế! Niềm cô đơn, khao khát yêu đương của người quả phụ ba mươi hai tuổi sao mênh mông, nặng trĩu đến thế! Nam tự hỏi, anh còn quá trẻ, quá sách vở, chưa nếm trải vị chát cay của cuộc đời nên còn quá khe khắt, quá đa mang chăng?
Ngày mùng năm Tết, Sài Gòn giờ đã quá xa, cùng Bảo Nghĩa nơi đây, đã ập vào tâm hồn anh bao nhiêu nỗi.
Soạn giáo án xong cho ngày mai, Nam đánh răng, rửa mặt và lên giường, chuẩn bị chờ bọ chét “chiếu cố” lại sau mấy ngày đi vắng. Thật ra bọ chét cũng chẳng có gì đáng sợ lắm!
Chẳng hiểu sao cô giáo Ka Kring hơi lai, xinh đẹp lại thoáng hiện trong giấc ngủ của Nam. Chẳng lẽ anh lâu nay thầm yêu Lộc Biếc, lại bất ngờ choáng váng yêu Ka Kring, một cô gái anh trực nhận, hoặc hơi lai Tây, hoặc tổng hòa các nhân chủng, sắc tộc! Con người kì cục thật! Và cả Sông Hương của thời sinh viên nữa, Nam đã quên đâu, mặc dù đã thật sự chia tay nhau với mỗi người một lẽ sống, phần nào do hoàn cảnh quy định, phần nào do bản tính của mỗi người.
Con người! Nam đâu phải ngây thơ để không hiểu nó. Nam hiểu con người qua sách vở, qua vốn liếng trải nghiệm đời tuy còn ít ỏi, qua cả sự phẫu thuật chính nội tâm mình.
Nam chợt nhớ lời của Khoai nói hôm nào, làm nhà giáo dục, cũng như làm nhà thơ, nhà văn, trước hết phải tự giáo dục chính mình tận trong tâm thức sâu xa. Sống, còn là một quá trình đấu tranh, tự đấu tranh. Học sinh và phụ huynh có hiểu giùm cho những ai làm nhà giáo không nhỉ! Ý tưởng bất chợt lóe sáng từ bao nhiêu lần tự suy ngẫm, tự đấu tranh của Khoai bỗng trở thành một tư tưởng lớn lao lại vô cùng giản dị!
Đó là ý nghĩ trong nửa chừng giấc ngủ của Nam, một giấc ngủ thanh thản lắng lại bao nỗi đời, sau một ngày dài dằng dặc về không gian, Sài Gòn – Bảo Nghĩa. Nam bỗng ngộ ra vẻ đẹp đích thực, nhân bản của Con Người (không phải là vẻ đẹp giả tạo, huyễn mị!), cả vẻ đẹp bi tráng của Cuộc Sống nữa: Con Người, trong Cuộc Sống, với quy luật tự nhiên – xã hội tàn bạo, bị đặt vào thế phải đấu tranh, tự đấu tranh, mãi mãi, từ vô cùng đến vô cùng. Có người thắng, có kẻ bại, nhưng loài người đã, đang, và sẽ chiến thắng.
Khuya ra giêng vẫn mênh mông lạnh buốt.

30

Khác với mọi hôm, trưa nay Ka Kring lại mặc quần bò (jean) như hôm mới đến trường, có lẽ cô sợ bị vướng gấu váy lúc ngồi sau xe đạp do Nam chở. Bây giờ, khi đã đến ngôi trường với năm phòng học, có cả hai phòng lồi ra phía hai đầu hồi, một là văn phòng Phân hiệu C, một là phòng ở tập thể của năm cô giáo, Ka Kring đã mặc váy lại.
Nam, Khoai, Huyện và Nghệ … thấy cô rút ra từ túi xách may bằng thổ cẩm Tây Nguyên một tấm thổ cẩm màu đen với các hoa văn viền một cạnh dài, cỡ bằng khăn trải bàn. Ka Kring vẫn hồn nhiên trong khi bốn người con trai đứng dậy định ra khỏi văn phòng. Ka Kring vấn tấm vải quanh chiếc quần bò cô đang mặc, ít ra cũng vấn hai lần vải, rồi thắt hai đai vải đúng vào vị trí của nó phía trước bụng, thành một chiếc nơ. Đai vải được may hẳn vào tấm thổ cẩm với sự tính toán trước về kích thước. Ka Kring mặc váy tự nhiên như người ta mặc áo vét hoặc áo len trước mặt người khác. Ka Kring lại là Ka Kring gần một tháng nay. Bốn thầy giáo sau phút bàng hoàng bỗng nhận ra một Ka Kring tự nhiên đến hồn nhiên và độc đáo.
Nam thoáng nhìn, sững sờ ngó ra cửa sổ văn phòng, mở ra phía một triền dốc thoải làm sân trường, tiếp với con đường rộng như xa lộ. Màu đất đỏ ba dan rực rỡ trong nắng xế trưa. Hình ảnh Ka Kring đã thu vào mắt anh. Nam đang ngắm hình ảnh Ka Kring bằng bộ não, bằng trái tim. Mái tóc nâu hoe vàng được bối tó, lộ chiếc gáy tròn đầy với những sợi tóc con rất xinh. Chiếc áo khoác cũng may bằng thổ cẩm, bên trong là chiếc áo vải cổ tròn. Ka Kring thon gọn, thanh thoát trong nhiều lần vải. Chiếc váy mới choàng vào buông xuống tận gót, càng tăng vẻ đẹp của dáng hình cô. Sao Nam không thấy chút nặng nề nào của trang phục xứ lạnh ở Ka Kring. Nam chợt hiểu vì sao quần bò của Ka Kring không có chiếc túi nào.
Khi Nam quay mặt lại, đã thấy Ka Kring cởi áo khoác vắt vào lưng ghế. Sau lưng váy của cô có ba hạt cúc đỏ cài khuy.
Mới đạp xe ở ngoài nắng vào, mồ hôi áo rìn rịn bỗng thấm hơi lạnh trong phòng cho Nam một cảm giác man mát ở ngực và lưng. Khí hậu tháng giêng lịch mặt trăng xứ này thật tuyệt.
- Có lẽ rồi Lộc Biếc cũng học cách ăn mặc của Ka Kring thôi.– Lộc Biếc nói, không một chút ganh tị thường thấy ở các cô gái –.
Câu nói của Lộc Biếc phá tan sự im lặng của những gương mặt trong văn phòng, sự im lặng của ngạc nhiên, ngẩn ngơ.
Cô giáo Tấm mỉm cười:
- Chính bọn em ở buôn B’Kẽh này mới cần phải vậy.– Cô Tấm lại ngập ngừng, rồi nói –. Thật ra, về phố mặc váy ngoài quần dài như Ka Kring mới thật độc đáo. Đẹp, kín đáo, rất Việt Nam và rất Á Đông.
- Giản dị, tự nhiên đến ngẩn người.– Nam nói –. Ka Kring làm tấm vải hình chữ nhật có hồn một cách không ngờ.
Ka Kring lắc đầu:
- Cái váy người Chiau Mạa em nó vốn vậy, em chỉ gia công thêm chiếc nơ. Nó đơn giản thế thôi. Chẳng cắt may gì cả.
Những giáo viên trẻ lại chuyện trò với nhau một lát về đời sống, một vài phong tục K’Hor – Chiau Mạa. Họ chờ nắng dịu bớt. Nắng phải xế về chiều những đồng bào Chiau Mạa mới từ rẫy về nhà.
- Đi B’Kẽh chơi, nói tiếng Chiau Mạa thế nào hở Ka Kring?– Nam hỏi –.
- Lọt B’Kẽh n’hơn (Lọt [bờ] Kẽ [hơ][nờ] hơn).– Ka Kring cười –.
- Chữ “chợ”, “thị trấn”, tiếng Chiau Mạa là gì?– Khoai mỉm cười hỏi –.
- Tầm rạ.– Ka Kring đáp –.
-Vậy là tôi dịch được một câu rồi.– Khoai thích thú –. Lọt tầm rạ B’Lao n’hơn!
Huyện đùa:
- Còn câu mà bất kì ai học ngôn ngữ khác cũng xem là câu đầu tiên phải nhớ, tiếng Chiau Mạa là gì?
Mọi người đều cười. Ka Kring hỏi lại:
- Cơm? Nước uống?– Cô hơi đỏ mặt –. Và tình yêu?
- Tình yêu ấy!– Huyện nói –. I love you, hoặc Je t’aime (tôi yêu em / anh) ấy mà.
- Vi còn ỏ,– Ka Kring đáp –, hay là, anh còn vi.
Cô giáo Thôn Hương sực nhớ:
- Có một lần vì từ “anh” tiếng Chiau Mạa ấy, em suýt bắt một học sinh ở đây chép phạt năm mươi câu luôn đó. Em hỏi một học sinh lớp hai: “Sao em không thuộc bài?”. Em ấy đáp: “Anh chỉ thích hát thôi”. Em giận đến muốn khóc và cũng buồn cười nữa. Nó dám xưng anh với em kia đấy! Hóa ra, chữ “anh” tiếng Chiau Mạa có nghĩa là “em” trong tiếng Việt! “Anh” cũng có nghĩa là “tôi”!
- Chép phạt câu gì vậy? Chắc không phải “Anh còn ỏ” chứ? Anh thích cái nhạc rồi thích cái chữ mấy hồi!– Huyện đùa –. Anh học trò xem ra dại dột quá! Cái chữ của cô giáo xinh đẹp thế mà …
Thôn Hương cười:
- Em đâu dám! Tất nhiên là một câu có tính giáo dục. Đâu phải lớp bổ túc văn hóa cho người lớn. Với học viên lớp bổ túc thì … cũng dám lắm chứ!
Đúng là một câu trả lời hay, buộc mọi người cười thú vị vì sự đáo để. Mỗi lúc, câu chuyện càng thêm vui nhộn.
Nắng đã xế chiều.
Sáu giáo viên trẻ ở Phân hiệu A, với Hương Quê, phân hiệu phó, cùng anh K’Đa, phân hiệu trưởng, mới đến trường khoảng độ mươi phút, kết thành một nhóm, đi về phía buôn B’Kẽh.
Buôn B’Kẽh chỉ gồm hai dãy nhà sàn đứng ven con đường rất rộng, dễ chừng trên ba mươi mét. Đi gần đến giữa buôn, Nam với các bạn bước lên một cầu thang được đóng bằng các khúc gỗ tròn, nhỏ, đã vạt phẳng chỗ đặt chân để khỏi trượt ngã. Một phần vì cận thị, một phần không ngờ, K’Bẻo đang vuốt ve con chó lai bẹc-giê gầy guộc, buông một câu hỏi bằng tiếng Chiau Mạa. Cũng bằng tiếng Chiau Mạa, Ka Kring đáp lại. K’Bẻo che mắt do nắng hắt vào từ khung cửa, lật đật đứng dậy thưa thầy cô.
Nam nói bằng tiếng Kinh vì anh không biết một tiếng Chiau Mạa nào cả:
- Các thầy cô đến thăm K’Bẻo đây. Ba má đi rẫy về chưa?
- Dạ, sắp về rồi thầy.– K’Bẻo vòng tay rồi xoắn các ngón tay lại với nhau, lộ vẻ bối rối –.
K’Bẻo đứng sững, bên chân là con “xồ” (chó) bẹc-giê đang ghếch mõm nhìn khách.
Chẳng biết nói sao, khi thấy bỗng dưng K’Bẻo đá vào hông con “xồ” một phát khá tàn nhẫn. Con chó kêu ăng ẳng rồi cúp đuôi chạy mất. Các thầy cô giáo nghĩ đó là cử chỉ vô ý, không phải vô lễ. Các giáo viên ngồi bệt xuống sàn gỗ. Đây là căn hộ của gia đình K’Bẻo mà Nam, Lộc Biếc, Huyện, Khoai đã đến thăm hai lần trong học kì một. Nam nhìn thấy không có gì thay đổi. Gọi là căn hộ, nhưng thật ra, không có phên vách hoặc màn vải ngăn giữa các căn. Một nhà sàn dài đến bốn, năm chục mét, đứng ở đầu này thấy rõ đầu kia. Nhà dài là nét đặc trưng của người Chiau Mạa về nếp ở. Mười hai hoặc mười lăm gia đình chung một nhà, có lẽ cùng chung huyết tộc, dẫu chồ đựng thóc, cũng cất theo kiểu có chân sàn, lại riêng, ở ngay phía sau mỗi hộ. Bầu đựng nước, gùi mây, rìu, xà gạt (chà gạt, một loại rựa), ché và nhiều vật dụng khác, mắc lủng lẳng ở vách gỗ, đặt trên sàn, chỗ dưới chân vách. Đây là buôn định canh, định cư, vách ván mái tôn hẳn hoi.
Nam nhìn đống than tro trên tấm tôn vuông, giữa căn hộ của K’Bẻo, một cảm giác lo ngại về hỏa hoạn lại lần nữa dấy lên trong anh. Nam biết đó là bếp, cũng là lò sưởi về đêm.
Trừ Ka Kring, ai cũng ngạc nhiên rồi bỏ qua, về cú đá tàn nhẫn sau khi vuốt ve con “xồ” của K’Bẻo. Ka Kring vẫn nghĩ ngợi.
- Sao em ác với con “xồ” vậy, K’Bẻo?– Ka Kring thắc mắc –.
K’Bẻo lại lúng túng. Chú bé cũng chẳng hiểu vì sao như vậy. K’Bẻo nói:
- Thưa cô, em thương nó hơn cả em nữa.
- Sao em đá nó đau thế? Mà sao lại thương hơn cả em nữa?– Ka Kring cười –.
- Thật mà cô, thật mà … Nó là bẹc-giê đó cô.
Ka Kring không hỏi gặng chú bé, mặc dù thật lòng cô chả hiểu vì sao như vậy. Cô nhìn vào đôi mắt xanh lơ rất châu Âu của K’Bẻo. Đôi mắt ấy toát ra một nỗi cô đơn và u sầu.
- K’Bẻo dạo này có tiến bộ, các thầy cô rất mừng. Nhưng em không thu xếp được một góc học tập có bàn ghế hẳn hoi sao? Thầy đã dặn rồi mà. – Nam nói –.
K’Bẻo lắc đầu:
- Khó lắm thầy.
Nam nhìn chồng sách vở cuối chân vách. Sách vở nhem nhuốc, cong góc giấy. Nhưng K’Bẻo biết bao vở bằng gì! Sách của thư viện đã qua tay lớp năm ngoái, không được giữ gìn cẩn thận, mà cẩn thận thế nào được khi chả có cặp lẫn bao sách!
Mãi đến khi nắng gần tắt, ba má K’Bẻo mới về cùng các người dân khác thuộc buôn B’Kẽh. Các nhà sàn dài sôi động hẳn lên. Trong gùi là bí ngô trái nhỏ, chỉ to hơn trái bưởi một chút, cùng mướp thơm … Họ còn mang về những bó củi.
Ba má K’Bẻo là hai người cỡ chừng ba mươi lăm tuổi, da nâu bóng khỏe mạnh. Sau những lời chào hỏi, họ lấy từ gùi ra các đốt mía chặt từ rẫy về để mời các thầy cô giáo. Đó là một loại mía lau rất ngọt. Vì hai chiếc răng giả, Nghệ phải mượn dao tiện ra từng lóng nhỏ để nhai.
Ba K’Bẻo thưa với thầy giáo Nam, sau một hồi chuyện vãn:
- Vợ chồng tôi có nó là út. Con trai đầu được bắt cái chồng rồi. Có điều cái bệnh bạch tạng này của K’Bẻo chắc khó chữa lắm. Ông mục sư bảo người da trắng bên Tây, bên Mỹ bị Chúa Trời phạt, cũng bị bạch tạng, vì dám buôn bán, khinh miệt người da đen, bắt người da đen làm công-cụ-biết-nói. Nhưng nhà tôi với K’Bẻo có tội gì đâu?
Ka Kring hơi giật mình. Cô ấp úng, rồi nói:
- Ông mục sư nào nói kì vậy, thưa anh?
- Ông mục sư Mỹ da đen nói vậy, hồi K’Bẻo mới phát bệnh. Năm đó K’Bẻo khoảng tám tuổi, cô à, tuy nó bệnh từ bụng mẹ.
- Chúa Giê-su (Jésus) cũng da trắng mà.– Cô ngạc nhiên –.
- Ông Chúa cũng bị phạt, để thương người da đen! Ông Chúa Giê-su cũng vấn khố như người Chiau Mạa. Ông mục sư cũng nói vậy, cô à. Cô không thấy Ông Chúa trên Thánh giá sao cô?
Các giáo viên chỉ ngồi im lặng. Lát sau, Nam dè dặt nói:
- Tôi không rành Kinh thánh lắm, nhưng hồi nhỏ cũng có học giáo lí, chưa thấy cha nào, chị nào giảng vậy cả. Ai lại cứu chuộc kiểu gì lạ đời, không mấy hiệu quả như thế!
- Đúng. Theo Đạo Chúa chỉ thấy cảm tình với người da trắng thêm. Chúa đã “bị” Âu – Mỹ hóa rồi, không còn là người Trung cận Đông thuộc châu Á nữa.– Lộc Biếc góp lời –.
Nam không muốn sa đà vào chuyện tôn giáo, nhất là trước mặt người có tôn giáo. Đó là khu vực cấm kị đối với anh, cũng như đối với hầu hết mọi người. Nếu có nói đến, anh cũng chỉ đề cập đến khía cạnh văn hóa của tôn giáo mà thôi. Nam hỏi ba K’Bẻo:
- K’Bẻo dạo này ở nhà có linh hoạt hơn không? Sao nó có con “xồ” lai bẹc-giê vậy, thưa anh?
Ba K’Bẻo cười:
- Nó thấy ông K’Sieo xin ở Minh Rồng về, nó thích quá, vì con “xồ” lai chó Tây. Đôi khi K’Bẻo nghĩ nó cũng lai Tây. Những lúc đó nó vui lắm, nó thích được ở bên Tây!
Nam bỗng rùng mình. Hình như anh hơi rớm nước mắt. Anh ngưỡng mộ, kính phục mục sư Mác-tin Lút-thơ King (Martin Luther King), người đấu tranh cho Quyền Con Người ở Mỹ. Nam cũng đọc nhiều truyện và thơ của người da đen ở châu Phi, ở các nước … Anh nhớ người lính Mỹ da đen đào ngũ, lấy vợ Việt Nam, sống chui nhủi nhưng hạnh phúc ở một xóm nghèo tại Đà Nẵng … Nam sực nhớ phim “Bầy thú trước bảng đen”, về một thầy giáo da đen trước một lớp học mà học sinh là da trắng. Anh nhớ người nô lệ da đen cao thượng chịu khổ hình thay cho người bạn da trắng cũng cùng thân phận nô lệ như mình trong phim “X-pác-ta-quýt” (Spartacus). Nam rùng mình, muốn khóc. Bi kịch về màu da thật thê thảm!
Nam đã hiểu, con “xồ” không chỉ chia sẻ hơi ấm từng đêm cao nguyên lạnh buốt với K’Bẻo. “Xồ” không chỉ là tấm chăn sinh động của K’Bẻo, và ngược lại. “Xồ” còn là bạn, là nguồn an ủi, là ước mơ tội nghiệp của K’Bẻo nữa. Nam cũng chợt hiểu, con “xồ” lai bẹc-giê cũng là kẻ thù của K’Bẻo, để K’Bẻo trút hết căm giận vào từng cú đá tàn bạo. K’Bẻo ngỡ nó lai Tây như con “xồ” lai chó Tây. Nó vừa thích, vừa thù. Nó thích vì thoát khỏi bệnh bạch tạng. Nuôi ảo tưởng không bị bệnh, K’Bẻo muốn thà là lai. Và chú bé học trò này lại căm thù thân phận lai màu da trắng mà nó ngỡ thế, ước muốn được thế. Còn gì thê thảm hơn một người mang chứng bệnh màu da, bị lạc lõng giữa cộng đồng! Còn gì thê thảm hơn một người căm thù ước mơ tội nghiệp cũng vì chứng bệnh màu da, gồm cả bệnh màu mắt, màu tóc! Tất cả cũng chỉ vì sự khác biệt về mức độ của khả năng hấp thu, chuyển hóa sắc tố mê-la-nin (mélanine) trong cơ thể của một số tế bào có chức năng ấy!
- Tôi phải đổi con “xồ” này cho K’Bẻo bằng hai gùi lớn thóc mới đó, thầy cô à.– Ba K’Bẻo nói –.
Ka Kring nãy giờ nhợt nhạt hẳn đi. Cô gái xinh đẹp anh đã choáng váng yêu từ phút đầu mới gặp đang cúi rũ đầu. Nam bỗng thấy anh đã vô tình làm tổn thương Ka Kring. Anh đâu ngờ cơ sự lại thế. Lâu nay, Nam có biết bi kịch giữa con “xồ” với học trò của anh đâu! Và hình như ai cũng cảm nhận được nỗi chạnh lòng của Ka Kring.
Mọi người xin phép ba má K’Bẻo ra về. Nam vẫn còn đứng sững ở cửa khi thấy Ka Kring nói gì đó với K’Bẻo, cầm lấy bàn tay trắng hồng của chú bé. Nam tiếc mình không hiểu, không nói được tiếng Chiau Mạa. Chú bé bỗng nắm chặt tay cô giáo bằng hai tay của mình, nước mắt đoanh tròng.
Trong bóng nắng chiều đã dần tắt, Nam bước về Phân hiệu C bên cạnh Ka Kring. Nam không biết nói gì hơn là im lặng. Anh sợ chạm vào nỗi đau màu da, nỗi đau lạc lõng đã quá trầm kha và đã hé nở thành nụ cười trên đôi môi đỏ hồng xinh đẹp, và cả nụ cười trong đáy mắt nâu trong vắt, sâu thăm thẳm của Ka Kring.
Sau bữa ăn với các cô giáo ở phân hiệu, anh K’Đa về căn hộ của mình tại buôn B’Kẽh. Các giáo viên Phân hiệu A sắp xếp ở văn phòng để nghỉ lại đêm nay, vì ngày mai là chủ nhật. Họ không nói gì nữa về chuyện màu da của K’Bẻo.
Đó là một đêm trăng cao nguyên.
Trăng cao nguyên mùa khô ráo và lạnh buốt, đặc biệt vào tháng giêng, có lẽ đẹp nhất trong năm. Trời cao xanh vời vợi, lạ thay, không một gợn mây. Bầu trời mùa này không mây, bao lần Nam sững sờ ngẩng mặt. Nam biết, màu trời trên thế giới này khác nhau. Vị thầy giáo rất thương mến Nam, một đêm ngắm trăng bên lan can cầu Trường Tiền ở Huế, có bảo nền trời Sô-phi-a (Sofia) màu tím. Bây giờ, bên cạnh Ka Kring, Nam bỗng nhớ người vợ Bun (Bulgarie) của thầy. Thầy yêu cô giáo người Bun ấy lẫn nền trời quê vợ. Nhưng Ka Kring đâu mang dòng máu người K’Hor Tây Nguyên. Biết thế, theo lời Hoán, song liên tưởng cứ là liên tưởng.
Ngắm ánh trăng ngời ngợi trong hơi sương lạnh buốt, nghe tiếng sáo u u ở các chòi thóc sau các dãy nhà sàn dài, thấy đêm bỗng có tâm hồn, tiếng thở của sự sống, sự sống của đêm. Nam biết, mỗi ống sáo ấy được gắn với một chiếc chong chóng để tự điều chỉnh theo hướng gió, luồng gió, và cả hai bộ phận cùng được gắn trên nóc chồ lúa. Đó là một loại sáo diều trên mặt đất. Tiếng sáo làm đêm sâu thăm thẳm, rộng bát ngát.
Nam thấy Ka Kring không có vẻ buồn do âm hưởng của chuyện con “xồ” với K’Bẻo. Anh bỗng mừng thầm, khi cảm nhận lại nụ cười trên môi, trên mắt của cô lúc từ nhà sàn của bà con K’Bẻo về. Hồi nãy, anh đã lí giải sai chiều sâu nụ cười ấy? Không, không thể sai được. Nhan sắc cũng có quê xứ với thị hiếu nghìn đời của nó, và nó cũng chịu sự lạc lõng ở quê xứ khác với thị hiếu khác.
Nam đọc khẽ một đoạn thơ về cô gái châu Âu và mùa thu Pa-ri (Paris) của Cung Trầm Tưởng đã được phổ nhạc:
mùa thu nơi đâu
người em mắt nâu
tóc vàng sợi nhỏ
không em chín đỏ trái sầu

Nam đọc như thể vu vơ, bâng quơ. Ka Kring mỉm cười, nhìn vào mắt anh, song chỉ thấy hai tròng kính trắng và gọng thép trắng.
- Em không thấy tâm hồn anh được.– Ka Kring thầm thì –.
- Người cận thị có tâm hồn lờ đờ.– Nam khiêm tốn nói khẽ –.
Ka Kring cười với tiếng cười trong vắt.
Bóng K’Đa đã xuất hiện ở cổng trường. Lộc Biếc và Khoai cũng vừa thấy, cả hai bước ra. Như đã bàn trước, bốn người bước ra sân để đón anh K’Đa, rồi cùng đi tới buôn B’Kẽh.
Thấp thoáng những ngọn lửa ấm trong các hộ của hai dãy nhà sàn, gợi nên một cảm giác hoang sơ cảm động.
- Anh K’Đa đã nhắn lại với chị nhà, cho anh em gửi lời thăm chứ?– Nam nói –.
- Có. Nhà tôi cảm ơn. Bà ấy đang ốm, chưa khỏe hẳn, bảo quá tiếc, không thể chuyện trò với các bạn được.– Anh K’Đa đáp –. Bây giờ, mình đến thăm nhà K’Bri trước, sau đó là Ka Tem nhé.
- Vâng. Nếu các em ấy đến trường chơi được, anh em mình chỉ ghé nhà một chốc thôi. Mai chủ nhật mà.– Nam lại nói –.
K’Đa gật đầu.
Đến căn hộ của ông K’Đờn, ba của K’Bri, vốn là cán bộ cách mạng về hưu, Nam lại một lần nữa nhìn vào ánh lửa bập bùng trên sàn gỗ. Quanh bếp lửa sưởi ấm: những người thân trong gia đình ba mẹ K’Bri. Lửa ở đây còn là ánh sáng. Lửa hắt lên những gương mặt da nâu đen ở nhiều lứa tuổi. K’Bri cười tươi sáng trên gương mặt thông minh. Ông K’Đờn, tóc đã ngã muối tiêu, nét mặt gân guốc như một tượng đồng, đang nói chuyện với Ka Kring bằng tiếng Chiau Mạa.
Anh K’Đa nói khẽ với ba giáo viên Kinh:
- Họ đang bàn về hai nhân tộc Chiau Mạa và K’Hor. Đã có một sự chia cắt từ lâu đời. Có thể Chiau Mạa ngày xưa là một nhánh của K’Hor hoặc K’Hor là một nhánh của Chiau Mạa. Vâng, có thể. Một sắc tộc bị chia vụn, chẳng hiểu do đâu. Nhưng không phải vì chính trị, tôn giáo … Hiện nay nhân tộc K’Hor có đến sáu nhóm chính: X-rê, Nóp, Chin, Lát, Tơ-ring … (1).
- Chỉ trên danh từ thôi sao?– Lộc Biếc hỏi –.
- Vâng. Ông K’Đờn nói có lẽ là do những nhóm người tách khỏi cộng đồng, mặc dầu sắc tộc K’Hor chỉ chín vạn người, cũng có thể là do óc cát cứ của các già làng, cũng có thể do cư trú khác địa phương, rồi như thể khác giống nòi … Ông ấy mong ước nay phải thống nhất lại bằng giao lưu …
- Đúng rồi. Phải giao lưu.– Nam nói, gật đầu –.
Ông K’Đờn bập bập tẩu thuốc khá dài, nhả khói:
- Tôi đã lo góc học tập cho K’Bri rồi, thầy Nam à.
- Dạ vâng. Phải có bàn ghế, dù đóng bằng gỗ thừa hay tre ghép lại, để chữ đẹp hơn. Chữ các em xấu, do phải ngồi chồm hổm để viết.
Ông K’Đờn cười vui vẻ, đang khi Nam nhìn bàn ghế bằng tre ghép của K’Bri. Trong ánh lửa bập bùng, Nam thấy một cây đèn bão treo bên cạnh tấm giấy nhỏ, kẻ khung ghi thời khóa biểu, và chiếc khăn quàng đỏ treo ở móc đinh, trên vách ván.
Nam yên tâm. Mục đích chuyến đi này của anh chỉ để kiểm tra góc học tập của các em, vận động các gia đình lo cho các em việc đó.
Họ từ giã gia đình ông trưởng thôn K’Đờn, xin phép cho K’Bri đi theo họ đến nhà Ka Tem.
Bà mẹ của Ka Tem mang bầu đã khá lớn, có lẽ sắp đến ngày sinh nở. Anh K’Đa đã có lần nói với Nam việc này: mẹ của Ka Tem, cả cô bé Ka Tem, thỉnh thoảng vào rừng sâu thăm chồng, thăm cha, một sĩ quan Phuyn-rô (FULRO.), với giỏ thức ăn và thuốc thang. Bên ngọn lửa bập bùng, Nam chỉ xin phép bà Ka Đôm cho cô bé Ka Tem lên trường chơi. Anh rất vui khi Ka Tem cũng đã có góc học tập với bàn ghế, đèn treo, thời khóa biểu.
Bà Ka Đôm uể oải tiễn khách.
Trong ánh trăng vằng vặc, lạnh buốt, họ đến nhà K’Bẻo để rủ em cùng lên trường chơi trăng. Ba má với K’Bẻo đang ăn tối, mỗi người cầm trong tay một chiếc bao đan – bao bằng sợi cỏ dùng để nén các vắt cơm nắm trước khi bẻ ra, đưa vào miệng. Nam ngỏ ý. K’Bẻo xin đi ngay, nhưng Nam bảo cứ dùng cơm đi, xong rồi lên trường cũng được; thầy cô và các bạn sẽ chờ.
Các giáo viên bước chậm về trường với Ka Tem, K’Bri. Ánh trăng cao nguyên và các bếp lửa hoang sơ! Nhà sàn dài, ủn ỉn tiếng lợn, chim chíp tiếng gà, u u trầm bổng tiếng sáo gió, thấp thoáng bóng các đàn dê … Tất cả, ngoại trừ những mái tôn sáng ướt ánh trăng, gợi lại một hình ảnh hồng hoang huyền sử. Ban Định canh định cư mới cất nhà cho họ theo nếp cổ truyền, cũng chỉ mới xây cho các em một ngôi trường gạch, trát vữa, nền được láng bằng xi măng. Đó là cả một sự ưu tiên, hơn hẳn trường lớp, nhà tập thể ở phân hiệu chính, ở các phân hiệu người Kinh.
- Huyện Công còn hứa sẽ cho một hệ thống loa truyền thanh về các hộ, sao đợi hoài chưa thấy có.– Anh K’Đa nói –.
- Chắc sẽ có. Có được vậy, đời sống tinh thần khá hơn.– Khoai xúc động đáp –.
Ở sân trường, dốc thoải, ngập ánh trăng, các cô giáo, Huyện và Nghệ đang múa hát với các học sinh cấp một, nhưng cũng chỉ đâu chừng hai mươi em. Các học sinh khác không đến, bởi hôm nay chỉ vui mà tập hợp, đâu có thông báo gì trước.
Nam đứng lại ở cổng trường, Ka Kring cũng đứng lại theo. Anh ngoảnh nhìn về buôn B’Kẽh, có ý ngóng K’Bẻo. Nam bỗng dưng thương chú bé bạch tạng quá. Anh hiểu, ba má K’Bẻo hầu như đã tuyệt vọng về chứng bệnh đã phát tác mấy năm nay nơi đứa con út của họ. K’Bẻo chưa có góc học tập. Điều đó cho thấy họ có trông mong gì sự khỏi bệnh ở em! Họ chỉ còn cầu xin một phép lạ từ Giàng, thượng đế của họ, cầu xin trong niềm tuyệt vọng. Nam cũng chỉ biết chữa bệnh cho em bằng hi vọng. Nam vẫn hi vọng có một ngày thế giới sẽ vui mừng bởi sự cứu rỗi của liệu pháp hóa dược, chữa lành những trục trặc về mã di truyền sắc tố, mê-la-nin (mélanine). Ngày ấy, không xa nữa, nhờ các bác học tài giỏi. Ngày ấy, K’Bẻo sẽ trở lại khỏe mạnh với màu da nâu trong lòng mẹ cho đến năm em tám tuổi, hoặc K’Bẻo sẽ là một chàng trai Bắc Âu hẳn với mái tóc bạch kim, da trắng hồng, mắt xanh lơ, như hiện nay ở em, nhưng lành mạnh, rắn chắc, yêu đời và thông minh, như những đồng bào của An-đéc-xen (Andersen) (35), nhà văn có tầm nhân loại.
Dưới ánh trăng, Ka Kring chừng như trực nhận ra điều đó. Cô nhìn Nam, lại mỉm cười:
- Anh Nam chờ ai, K’Bẻo thôi sao?
- Chờ hiện thân của niềm đau.– Nam bông đùa với nỗi buồn trong lòng mình –. Chờ Gôn-đô (Goldot) như Béc-két (Berket) (36).
Ka Kring bỗng đẹp lạ lùng và rất liêu trai dưới ánh trăng. Anh biết mình vừa ngốc, song không thể nói một câu gì khác.
- Trong em, có nhiều dòng máu của nhiều chủng người. Anh Nam tin điều đó không? Máu da đen, máu da trắng, máu da vàng … Máu đế quốc, máu nô lệ, máu cộng sản … Trong em, có một sự hòa hợp và xung đột của ý hệ nữa. Anh Nam có tin điều đó không?
- Em nói như một lời thoại của truyện cổ tích hiện đại, hiện thực huyền ảo. Đúng hơn, Ka Kring là nhân vật viễn mơ.
- Em không ngờ anh là một nhà thơ trẻ, cùng quê với Chế Lan Viên! Ka Kring vẫn nghĩ không có gì đẹp hơn trái tim nhà thơ.
Nam những muốn ôm ghì lấy cô gái lai xinh đẹp này. Nam run lên, nóng bỏng cả vầng trán. Anh tự ái và bổi hổi yêu dấu.
- Anh chưa là gì cả.– Nam nghèn nghẹn –. Có điều anh không tin nổi sự đa sắc tộc, đa văn hóa trong dòng máu em. Đó chỉ là giấc mộng của một khát vọng tốt đẹp, của tương lai xa.
- Thật ra,– Ka Kring mỉm cười, mắt cô nhìn xa xăm –, em cũng không hiểu về lí lịch của em.
Ka Kring bỗng như muốn trốn khỏi ánh trăng. Cô bước tới, tựa vào cổng trường được xây bằng gạch, màu vôi nhem nhuốc với bùn đỏ, khuất trong bóng tối. Nam bước đến gần.
- Anh Nam biết không … Em là con gái của một người tài xế Chiau Mạa với một cô gái tóc vàng vốn là con của ông chủ lai Pháp. Mối tình của ba và mẹ em, em cũng chỉ nghe nói một cách mơ hồ. Bà cố nội của em là người Kinh. Bà nội là Mỹ da đen … Bà cố ngoại là người Nga. Bà ngoại là Tàu lai Nhật. Ông ngoại là Pháp lai Nga. Ba em là người Chiau Mạa có cha là Chiau Mạa lai Kinh …– Cô ngập ngừng, giọng Bắc pha Nam của Ka Kring run run –. Phả hệ gia tộc em thế đó, nếu tính theo phụ hệ.
Nam không thể không ngạc nhiên về một phả hệ kì lạ như vậy. Anh chợt nhớ, có rất nhiều người hoàn toàn mơ hồ về lí lịch của mình, họ đâm ra bị hoang tưởng về nguồn gốc xuất thân. Họ có chứng nhớ bịa. Họ hoàn toàn tin điều họ bịa ra, hoặc chỉ thấy trong giấc mơ lúc ngủ, là sự thật. Điều họ không biết, chỉ có thần linh biết, và thần linh đã khải thị cho họ bằng giấc mơ. Cũng có thể họ tự củng cố lí lịch bịa để dần dần họ đinh ninh đấy là sự thật, vì nguyên nhân tâm lí, thần kinh hay xã hội. Niềm tin lại rất chân thành! Ba của Nam ngày xưa là một sĩ quan quân đội ngụy nhưng làm công việc hành chính (nội an về dân sự và quân vụ thị trấn) có nghiên cứu sâu về tâm lí học tội phạm, nhờ thế, anh đọc được tư liệu tâm lí về chứng hoang tưởng. Chẳng lẽ Ka Kring lại rơi vào trường hợp hoang tưởng về nguồn gốc dòng tộc? Không. Chỉ đùa thôi, hoặc thoáng nhẹ thôi?
Ka Kring khuất trong bóng tối, nhưng ánh mắt cô vẫn long lanh, chừng như rưng rưng nước mắt. Cô có thể nhìn rõ nét mặt, cả cử chỉ của anh dưới ánh trăng vằng vặc sáng.
- Anh chỉ tin em là người Việt Nam, có cha mẹ là người Bắc di cư, theo Đạo Phật, như lí lịch em nộp ở anh Giảng, Nguyễn Thị Ka Kring ạ.– Nam nửa tin nửa ngờ –.
- Em là người sắc tộc Chiau Mạa thật mà.– Và Ka Kring cười khanh khách –. Ka Kring sẽ bắt cái chồng là anh Nam đấy! Em cũng là người vô thần, anh Nam ạ.
Nam cũng cười vang với Ka Kring.
- Cảm ơn Ka Kring.– Nam phớt tỉnh, giấu niềm xúc động –.
- Em sẽ sinh ra cho anh bốn người con, hai da vàng, một da trắng, một da đen.– Ka Kring nửa thật nửa đùa –. Anh thích không? Nhưng rất tiếc, anh không phải là nhà thơ, vì trái tim anh bằng xi măng cốt thép!
- Đừng khiêu khích nhau mà, Ka Kring!– Nam đã thấy Ka Kring hoàn toàn đùa cợt –.
- Thôi, ta vào trong ấy với các bạn!– Ka Kring bỗng lạnh lại trong giọng nói –.
Ka Kring bước một mình. Bộ áo váy thổ cẩm màu đen viền các hoa văn đỏ, trắng, xanh, vàng khiến cô gái lai này xinh đẹp, cao sang và hoang sơ lạ lùng. Nam sững sờ nhìn theo.
Tiếng hát các học sinh, các thầy cô giáo vẫn ngân vút lên dưới ánh trăng.
Nam chợt nhớ K’Bẻo vẫn chưa tới.
Khi Nam ngồi ở thềm trường học một lúc lâu với anh K’Đa, K’Bẻo mới một mình đến phân hiệu. Cô giáo Lộc Biếc vội ra khỏi vòng tròn múa hát, cầm tay K’Bẻo dắt vào.
Không biết Lộc Biếc đã tập hát thêm nhạc thiếu nhi với Trăng Thu, Cam Ly lúc nào, bây giờ cô lại cao giọng hát trong ánh trăng cao nguyên đêm nay.
Rồi tiếng hát trong vắt của Ka Kring:
- … trái đất này là của chúng mình
vàng, trắng, đen, tuy khác màu da
bạn yêu ơi, chúng ta là hoa quý
đầy hương thơm, nắng tô màu tươi thắm
màu hoa nào cũng quý cũng thơm …
… bồ câu ơi, tiếng chim gù thương mến
hải âu ơi, cánh chim vờn trên sóng …
… màu da nào, cũng quý cũng thơm … (37)

- Không có màu da đỏ chứ, anh Nam?
- Không. Người da vàng vốn là thổ dân châu Mỹ. Khi ra trận, họ bôi phẩm đỏ. Những thực dân đầu tiên, ở châu Âu đến, nhầm họ là Ấn Độ, rồi gọi là dân da đỏ.– Nam mệt mỏi đáp với một cái ngáp trong lòng bàn tay –. In-đi-ân (Indian)!
- Tây Nguyên này, xa xưa là của vương quốc Phù Nam. Điều đó đúng không?– K’Đa lại hỏi –.
Nam gật đầu.
- Rồi người Chăm, từ Nam Đảo (Indonésia) đến, lập quốc ở miền duyên hải dưới Tây Nguyên?
Nam gật đầu, đáp khẽ:
- Đúng rồi, anh K’Đa.
- Nhân tộc K’Hor, nhân tộc Chiau Mạa là dân thiểu số của vương quốc Chăm, rồi của Việt Nam?
Nam gật đầu một lần nữa:
- Nhóm Bách Việt, trong đó có người Kinh, cũng di dân từ Trung Quốc tới Bắc Bộ Việt Nam. Đó là những nhân tộc bị lấn chiếm địa bàn cư trú ở Quảng Đông, Quảng Tây. Thái, Kinh, K’Hor, Chăm … đều chung một số phận lịch sử.
Anh K’Đa im lặng. Nam cũng thấy hơi buồn ngủ, vì suốt ngày hôm nay Nam chưa hề chợp mắt lát nào. Nam muốn ra sân múa hát với các bạn, với học sinh cho tỉnh người.
Nam chợt nhớ một sáng sớm gần Tết, sau khi nghỉ lại ở phân hiệu này, Khoai và Nam đã đến nhà K’Bẻo. Trong ánh nắng sớm, những bà con Chiau Mạa ra trước hiên nhà sưởi nắng. Ngồi sưởi nắng mãi cho đến chín giờ sáng, lúc sương với khí lạnh trên rẫy xa đã tan, họ mới mang gùi, vác xà gạt lên vai. Những nụ cười ban mai của bao người dân buôn B’Kẽh mãi còn ấm áp với vẻ chất phác, thuần hậu nơi sâu thẳm kí ức Nam.
Nam cũng chẳng hiểu vì sao lúc này Nam lại nhớ những gương mặt, những nụ cười ấm nắng ban mai ấy.
Anh lại nhìn Ka Kring xinh đẹp trong ánh trăng tháng giêng, trong tiếng hát tháng giêng. Thật lòng, Nam cũng không hiểu nổi mình nữa. Nam còn yêu Sông Hương chăng? Nam mãi nuôi một mối tình thầm với Lộc Biếc sao, khi Huyện và Lộc Biếc gần gũi, cảm mến nhau đến thế?
Nam bỗng thương Khoai biết bao! Nam không thể không hiểu nỗi lòng Khoai. Nhưng làm thế nào được!
Ka Kring, Ka kring, tôi nào phải là trò đùa của em!– Nam cúi đầu thầm nghĩ –.
Tiếng sáo gió u u theo gió khuya bổng trầm, giạt xa, rồi gần lại trong ánh trăng mênh mang, và tiếng hát ngoài sân trường học kia như lóng lánh sương trăng, đưa ý nghĩ của Nam trôi theo mạch bâng quơ.
- Anh K’Đa này, mình ra sân cùng chơi đi.
K’Đa gật đầu, đứng dậy, bước ra bên cạnh Nam.
-… trái đất này là của chúng mình
quả bóng xanh bay giữa trời xanh …

Anh Nam à,– Anh K’Đa đọc hai dòng ca từ, lại nói tiếp –, trái đất này dễ vỡ như quả bong bóng xanh sao?
- Vâng, mong manh lắm, anh K’Đa à. Tùy loài người chúng ta đó thôi. Yêu thương sẽ chiến thắng, sẽ vững bền …
Bài hát ấy với tiếng hát Ka Kring mặc dù đã tắt từ lâu, nhưng vẫn còn âm hưởng trong tâm thức K’Đa.
Khi K’Đa và hai cô giáo khác tựa lưng nhau, đứng hát giữa vòng tròn, tay Nam nối vào tay Ka Kring và tay K’Bẻo, trong vòng tay nối liền của các thầy cô giáo từ nhiều quê xứ đến đây, của các em Chiau Mạa, Nam bỗng ngỡ họ đang đan tay nhau quanh quả đất dễ vỡ và khát vọng vững bền.
Trăng đã lên cao, lúc tiễn các em cùng anh K’Đa ra về, Nam bắt tay ba học sinh lớp bảy của anh thật chặt như bắt tay ba số phận không giống nhau.
- Này nhà thơ,– Ka Kring lại trêu Nam –, anh đâu có cách tư duy của công an hay cán bộ chính trị, phải không? Nhà thơ ơi, hãy là nhà thơ, cho đời ấm áp tình người.
Bước chậm bên cô giáo lai xinh đẹp, anh nghẹn họng. Ka Kring vẫn tự nhiên mở ba hạt cúc màu đỏ sau lưng váy, rồi mở cả chiếc nơ trước bụng được thắt bằng hai đai vải bên cạnh anh. Nam hơi bàng hoàng. Anh bảo, sau một lúc:
- Anh chỉ là một con người, em cũng là một con người, con người rất Việt Nam. Chúng ta là người Việt Nam. Đó là điều trước tiên, cũng là cuối cùng. Và anh chỉ có mỗi một khát vọng, đam mê, ấy là sáng tạo văn chương.
Khoác tấm thổ cẩm hình chữ nhật lên vai, bước từ cổng trường vào sân, dưới ánh trăng sáng, Ka Kring với chiếc quần bò bạc màu không bó sát, với áo khoác mở cúc, trông giống như một cô gái trong phim về châu Mỹ, chỉ khác là Ka Kring không mang giày cao ống có cựa thúc ngựa, mà với đôi dép có quai sau màu trắng trong, bằng nhựa, được sản xuất đâu ngoài Hải Phòng. Nam thoáng rùng mình.
- Như vậy anh Nam mới đúng là một nhà thơ trẻ. Ka Kring sẽ bắt cái chồng là anh Nam đấy!– Ka Kring lại bật cười khanh khách, vụt chạy vào phòng của các cô giáo –.
Mặc dầu vẫn bị ấn tượng về thực dân da trắng, nhưng nghĩ cụ thể, Nam thấy Ka Kring thật ngộ. Lòng Nam dâng lên một niềm vui sướng. Anh vẫn chậm bước vào văn phòng.
Đêm ấy, Ka Kring đắp tấm thổ cẩm làm váy như đắp tấm chăn mỏng. Cô mỉm cười, nao nao nghĩ về Nam trong khi chờ giấc ngủ khỏa ánh trăng lên tâm hồn cô, cho cả tâm hồn và thân xác cô tan vào ánh trăng tháng giêng cao nguyên.
Đêm ấy, nằm trên hai băng ghế học sinh, được đặt vào văn phòng, Nam thao thức. Vẳng trong gió khuya, tiếng trống, tiếng thanh la, tiếng kèn não nuột buồn từ khu rừng mồ côi (38) ngoài đồn điền trà, khiến Nam hình dung ra một người Chiau Mạa vừa mất, có thể mấy hôm, mấy tháng rồi, đang được đưa linh hay gọi hồn ở nghĩa trang của buôn B‘Kẽh. Nam khao khát được sống hết mình, sống mãnh liệt và sâu lắng. Nam biết Ka Kring đã chiếm hết tâm hồn anh. Ka Kring có đùa không nhỉ? Nam phân vân … Âm nhạc cõi chết kia dạy anh nỗi khát sống … Cơ chi đừng bao giờ có ban đêm của giấc ngủ trên đời này. “Cổ nhân bỉnh chúc!”. Nam nhớ người xưa tiếc kiếp người quá ngắn ngủi, ngày đã chuyên cần lao động miệt mài, phải thắp đuốc đi chơi về đêm.

31

Những ngọn gió ở vùng cao này như một người bạn kiên tâm, nhẫn nại và giữ đúng lời hẹn. Tháng này, hằng năm, gió lại về, thổi ù ù suốt ngày như gió Lào Quảng Trị quê Nam và Khoai, có điều nhẹ nhàng, lành lạnh. Người ta gọi đó là tín phong.
Không biết có phải vì gió hay vì tình cảm với chú Hải của cô bé Ngoan, Cam Ly đã ngã bệnh. Cam Ly cơ chừng không chịu nổi sự giằng xé trong trái tim mười chín, hai mươi của cô.
Hoán đang đọc lại những cuốn sách giáo khoa lớp mười hai để chuẩn bị cho kì thi tuyển vào đại học sư phạm, nhưng anh cũng vui vẻ xuống bếp phụ một tay với anh Quỳnh, Nam, Huyện và Nghệ. Họ đang lúi húi “xử lí” những con thỏ gầy guộc. Anh Quỳnh có vẻ chán nản vì kế hoạch của Công đoàn về nuôi thỏ đã thất bại. Hoán vừa lột bì vừa nói:
- Thỏ đã thuần hóa bao đời, nay đồng chí Quỳnh lại hoang hóa bằng cách nuôi lộ thiên! Sương lạnh, đất lạnh, làm sao chúng chịu thấu. Chả tăng trọng được mấy tí.
Anh Quỳnh rạch mũi dao, xẻ xương sống của một con thỏ, lấy sạch tủy, vì nghe đâu, làm thế, thịt thỏ đỡ bị hoi. Anh cười:
- Chỉ giỏi cái tài thịt, còn nuôi thì phải trả giá kinh nghiệm một lứa. Hoán mới rút kinh nghiệm chứ hay ho gì!
Mấy anh em cùng cười. Cô Trâm đang đun sôi soong cháo nhỏ cho Cam Ly, mùi gạo bốc lên thơm lừng. Đây là gạo dự trữ từ nửa kí trên mười hai kí rưỡi (mười hai kí chẵn là bo bo “bọc nhựa”, chỉ nửa kí là gạo chưa sạch thóc, còn nửa kí khác thuộc về khoản tiết kiệm, nghĩa vụ cho chiến trường biên giới). Nửa kí gạo hàng tháng ấy, thuộc tiêu chuẩn của mỗi giáo viên, đã được trích lại dành cho trường hợp ốm, theo yêu cầu của Công đoàn trường. Cô Trâm băm thịt thỏ nạc, rồi cho vào soong cháo. Mùi cháo thơm nức mũi với hương hành ngò do hai chị nuôi trồng.
Xong việc, nhường khâu nấu nướng cho các cô giáo, cánh nhà nam ra chái đầu hồi. Nam nhìn những con thỏ còn lại trong chuồng. Thỏ gầy guộc, hom hem giữa các cây sắn ghép lại bao quanh đang trổ lá xanh um. Nam mỉm cười với ý nghĩ, nuôi thỏ kiểu này không khéo lại thu hoạch được sắn củ!
Hoán rít thuốc lào, nhả khói:
- Sao lại liên hoan thịt thỏ gầy lúc Cam Ly ốm nhỉ! Rõ là cô ấy bệnh, mất một tiếng cười hồn nhiên, tinh quái nhất nhà.
- Dự định tuần trước,– Anh Quỳnh gãi râu quai nón lu lú xanh –, đâu ngờ cô ấy hôm qua lại ốm.
- Thông tin mới nhất đã được kiểm chứng, Cam Ly ốm nhớ, ốm tương tư với ông Hải, em cô Xinh.– Hoán nói –.
- Yêu đến phát ốm, đó là cả một chuyện tình lớn. Anh em nhà tập thể liên hoan Mừng tình yêu đương là đúng chứ còn gì nữa.– Khoai cười, định nói thêm: “Chúc mừng nhưng cũng phải phạt, phạt trái tim “ốm yếu””.
- Thật ra mình biết, cô ấy giằng xé lắm. Công đoàn ơi, anh không quan tâm gì đến trái tim của công đoàn viên cả! Cam Ly vừa yêu, vừa lo.– Nam nói –. Người coi vậy mà yếu thật đấy.
Anh Quỳnh gật đầu:
- Mình hiểu chứ. Giáo viên nữ ở riết tại các trường vùng xa, vùng phụ cấp hai mươi lăm phần trăm lương trở lên, sẽ ế chồng hết. Họ cô đơn, biết yêu ai! Và ai yêu! Mấy đồng chí nam thì sẵn sàng muộn vợ, như Nam, Khoai, Nghệ … Cam Ly yêu Hải là một khổ tâm cho cả hai. Cái cuốc với cây bút xem ra chênh lệch nhau quá, khó hòa hợp trong đời sống vợ chồng. Hải nó mặc cảm, trời đất ạ!
- Công đoàn phải bổ sung chỉ tiêu đám cưới! Mỗi năm ít ra là phải có vài đám cưới mới đạt danh hiệu “Công đoàn cơ sở tiên tiến”!
- Vậy Nghệ trước nhé! Có đối tượng chưa?– Khoai lại cười –.
Anh Quỳnh bỗng vừa đùa vừa thật:
- Có lí đấy. Lẽ ra Ban Tổ chức của Phòng phải làm ông Tơ bà Nguyệt trước, bổ nhiệm các cặp xem ra có thể kết hôn …
- Người ta đang chống Ăng-ca (Angkar) của Pôn-pốt (Pon Pot), I-êng Xa-ry (Ieng Xary) và chủ nghĩa Mao, thưa các thầy!– Hoán cười khùng khục –. Ăng-ca là một tổ chức gây nhiều tội ác nhất của Kh’mer Đỏ, trong đó có cả việc “phân phối chồng vợ”, áp đặt hôn nhân!
- Tùy ý chứ ai áp đặt gì đâu!– Anh Quỳnh lại gãi chân râu –. Đó là tạo điều kiện, cái quyết định vẫn là trái tim, cái đầu …
Nam bỗng thấy, chẳng hiểu sao trong nhà chị Xinh lại có thêm một bi kịch nữa. Nhưng anh biết mối tình Cam Ly với Hải vẫn là một mối tình mãnh liệt và trong sáng. Cam Ly là một cô gái bản lĩnh. Chú Hải của bé Ngoan lại đậm chất Nho giáo, tuy thất học sớm, trình độ mới lớp chín đã bị đôn quân vào lính ngụy. Nam cũng biết, mối quan hệ giữa chị Xinh với anh Trà đã vỡ lỡ. Phụ huynh đã xầm xì bàn tán. Học sinh đã nhìn chăm chăm vào bụng cô giáo Xinh khi cô lên lớp. Ban An ninh xã đã bắt quả tang, lập biên bản trong một đêm họ lén lút gặp nhau, với tội danh “vi phạm thuần phong mĩ tục, gây tác hại đến uy tín giáo viên”. Có điều, Nam cũng mừng khi thấy bé Ngoan đã chịu đựng được tai họa mà cô bé đã lường trước. Hơn bao giờ hết, Nam đã nâng đỡ tinh thần của Ngoan trong mấy tuần gần đây. Nam tìm cách để khen ngợi, biểu dương Ngoan trước tập thể lớp, cả đề xuất khen trước toàn trường sau buổi lễ chào cờ sáng thứ hai, tuy không lạm dụng giá trị lời khen.
Nam mỉm cười khi anh Quỳnh bảo:
- Sao ông Nam trầm tư vậy! Sắp tới, anh em mình nuôi ong đi. Mình đã liên hệ xin được vài tổ ong của mấy anh em thợ rừng rồi. Cứ nuôi, xem thử, “thất bại là mẹ thành công”!
- Cứ nuôi thì cứ nuôi chứ sao! Cứ nuôi cho biết. “Nuôi ong tay áo” tôi cũng nuôi. Quá lắm, bị chích vào nách chứ khó gì!– Hoán lại khiêu khích anh Quỳnh với nụ cười khùng khục –.
Anh Quỳnh bị sặc vì khói thuốc lào, đang vuốt ngực:
- Ông Hoán “khẩu xà” quá đấy nhé.– Anh Quỳnh vừa ho vừa nói –.
Hoán thấy thuận miệng, nói chơi, hóa ra hớ. Anh đỏ mặt thấy mình đùa vô duyên.
- Ý em nói bất cứ giá nào cũng nuôi ong. Cho dù thất bại như nuôi thỏ, cũng nuôi cho biết.– Hoán cầu hòa –.
Ngọn gió đúng hẹn được gọi là tín phong cứ thổi thao thao, nhẹ nhàng, lành lạnh. Vạt khoai lang trước mặt nhà tập thể đã được dỡ củ từ lâu, cỏ tranh lại phủ lên vượt vồng. Những lá cỏ cong mình theo luồng “gió hẹn”. Trong một khoảng khắc gió ngừng, Nam nghe mùi thịt thỏ hòa vào mùi sả cháy thơm thơm, khen khét. Chiếc bao tử đã hẹp lại theo tiêu chuẩn lương thực hạn chế, không thể ăn nhiều được nữa, cũng khẽ sôi réo. Nam mỉm cười về sự thích nghi của cơ thể trong điều kiện khó khăn chung. Sự khắt khe ở mức độ đúng với đạo lí muôn đời, Đông cũng như Tây, trước thời bùng nổ chủ nghĩa lãng mạn cá nhân, sóng yêu đương vỗ tràn bờ, và phong trào thác loạn ở các nước Âu – Mỹ, có làm ngăn tim chứa đựng tình yêu đôi lứa nhỏ lại không nhỉ.– Nam tự hỏi, vì không dứt được suy nghĩ về mối tình anh Trà – chị Xinh, mối tình Cam Ly – Hải –. Nam nghĩ, có thể như vậy, cũng như với bao tử, về mặt nghĩa bóng, để tình yêu khác rộng lớn hơn, cao đẹp hơn, như Tình yêu Đất nước, Tình yêu Con Người, Tình cảm Thầy trò … Biện chứng giữa đạo lí với tình yêu đương đâu phải chưa được thử thách qua hàng ngàn năm lịch sử! Nam cũng tự hỏi anh có quá khắc kỉ không. Nếu với quan niệm ấy, giá trị đích thực của con người sẽ cao quý hơn chăng.– Nam cũng tự đặt lại vấn đề đã cũ –. Hàng nghìn năm phong kiến, Nho giáo, có bao giá trị cần bảo lưu, duy trì dưới ánh sáng dân tộc và khoa học hiện đại! Nam kéo một hơi thuốc lào, rơi vào sự trầm tư như thể say thuốc, mặc anh em cánh nhà nam cười đùa, chuyện phiếm.
- Xong rồi, mời các thầy cô vào ăn bữa chiều sớm một hôm.– Cô Lài bước ra ở khung cửa hông chái sau, nói với nụ cười –.
Nam vào gian nhà nam lấy bi đông rượu cần mà ông K’Đờn – ba của K’Bri – hôm nào anh qua B’Kẽh thăm, đã tặng. Nam để dành từ hôm ấy đến nay.
Nam quay lại chái sau. Anh chị em nhà tập thể đã ngồi vào bàn. Nam rót ra một li nhỏ chất rượu đùng đục, hơi chua, đi quanh bàn mời từng người. Nam bồi hồi khi chạm ánh mắt Ka Kring.
Nhấm nháp một lúc, Hoán nói:
- Rượu cần này lẽ ra phải nhậu với mối rang hôm nọ mới tuyệt.
Khoai gật đầu. Lộc Biếc bỗng thích thú vì cảm giác sờ sợ khi ăn món mối rang béo ngậy rất nguyên sơ hôm nào:
- Lộc Biếc cũng thấy vậy. Món mối rang rất rừng sẽ rất hợp với rượu cần, hút từ cần trúc cắm vào ché. Ở Tây Nguyên, tiếc là chưa được hút rượu kiểu đó.
- Đợi mùa lúa mới sang năm!– Anh Giảng cười –.
Nam vừa nhai thịt thỏ áp chảo, vừa nhớ mùa mối. Mối từ các ụ đất (do mối đùn lên giữa rẫy, cứng như bê tông), bay ra mù mịt một khoảng trời, sà vào ánh đèn. Cứ việc thong thả nhặt cho vào chảo nóng. Hoặc đun khói đầu lỗ này, bao úp miệng vào lỗ kia cho mối bay vào, cột bao lại, rồi cũng đổ vào lòng chảo nóng trên bếp. Những con mối gần bằng nhộng tằm, rụng hết cánh, béo ngậy. Nhộng xào và mối rang! Nam lại liên tưởng đến những dĩa nhộng …
- Tình hình tổ chức ở ngoài Phòng có gì mới không anh Giảng?– Huyện chợt khẽ hỏi bên tai anh Giảng –.
Anh Giảng lắc đầu:
- Sang năm còn phải ăn mối rang ở đây một mùa nữa!
Cô Phước nhờ Nghệ châm đèn. Trong nhà, đã nhập nhoạng tối. Chú mèo đực hôm nay được một miếng thịt thỏ, đang mê mải nhai, với tiếng gừ gừ như sợ bị tranh mất. Nam thấy chú mèo ăn với cả sự rung động toàn thân!
Ánh đèn sáng, hắt vào tấm bảng đen tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên, nổi sáng nét phấn của Trăng Thu hôm kia. Nam sực nhớ, tối hôm nay anh còn phải đi bổ túc văn hóa tại nhà ông Binh. Nam lại nhớ những câu chuyện thời chống Pháp, chống Mỹ ông đã kể lại cho Nam nghe. Anh hiểu niềm khát vọng được học của ông Binh thời trai trẻ, với những xung đột trong nội tâm ông, những xung đột lẽ ra không có … Chuyện tổ chức khiến Nam liên tưởng vu vơ.
- Ăn thịt thỏ cứ nghĩ về cái ngon của thịt thỏ, sao cứ dại nghĩ về mối rang! Thế là không biết cách ăn rồi đó.– Ka Kring cười và nói –.
Dưới ánh đèn, họ vừa ăn vừa nói chuyện, vừa bông lơn, trách đùa về việc Cam Ly phải bệnh bất ngờ.
- Cô ấy chỉ ăn thịt “cọp nhà meo meo” thôi!– Hoán cười khùng khục –. Thỏ nhát lắm! Thịt “cọp nhà” mới ngon.

32

Lộc Biếc vừa phác qua vài nét chính về bài thơ “Thần” của Lý Thường Kiệt, vốn được xem là một bản tuyên ngôn độc lập của nước Đại Việt. Cô vòng tròn bằng nét bút đỏ chữ “Đế” trong bài thơ ấy, một chữ rất quan trọng thể hiện niềm tự hào dân tộc, sự bình đẳng quốc gia, chủ quyền Đất nước mà ở giai đọan chống bành trướng Trung Quốc hiện nay, các bài báo nhấn mạnh, phân tích kĩ (39).
Nhưng đã đến giờ họp Hội đồng Phân hiệu, Lộc Biếc cầm luôn cuốn vở giáo án dạy kèm cho ông Binh sang văn phòng.
Hai ngọn đèn dầu đặt trên hai bàn giấy. Lộc Biếc ngồi đối diện với kệ gỗ đựng giáo cụ trực quan vốn áp sát vào lưng vách ván của phòng hai cô cấp dưỡng. Cái sọ người thật do anh Quỳnh xin ở đâu về, với hai hố mắt rỗng, sâu hoắm, hàm răng đã rụng vài chiếc nhe ra trọn bộ, đang hướng về cô. Ban đầu thì sợ, bây giờ cũng đã quen, Lộc Biếc nhìn cái sọ người rồi nhìn quanh văn phòng. Các khuôn mặt nhà tập thể, và anh Ruộng, chị Xinh, với Hạ nữa, đã tề tựu đủ.
Những nhận xét, đánh giá công tác tháng trước, kế hoạch tháng tới đã được anh Giảng triển khai. Cô Lụa cũng thông báo thêm về kết quả phong trào thi đua “Về thăm Lăng Bác”. Một cuộc họp thường lệ khá bình thường bỗng trở nên sôi động hẳn, khi anh Giảng lại phát biểu:
- Trong kì họp này, có hai vấn đề mà Ban Giám hiệu đã bàn luận, cân nhắc kĩ trước khi đem ra Hội đồng. Trong đó, có một vấn đề, đã xin ý kiến của Phòng Giáo dục huyện Công, và Phòng đã có một vài gợi ý về vụ này. Xin các đồng chí bình tĩnh.
Lộc Biếc hơi run, biết đâu, đó là vấn đề báo cáo chuyên đề đầu năm của cô! Lộc Biếc vẫn bình tĩnh, tự trấn an. Cả phòng họp xôn xao hẳn lên. Nhiều người đã biết trước chuyện gì đã xảy ra. Chị Xinh cúi đầu, khiến nhiều cặp mắt chú mục vào chị.
- Thưa Ban Giám hiệu và các đồng chí, như vậy xem ra toàn thể mọi người trong phân hiệu đã thảo luận, nhất trí với sự đánh giá và kế hoạch tháng của nhà trường, kể cả ý kiến của đồng chí Lụa, tổng phụ trách Liên chi đội Đội Thiếu niên, đại diện của Chi đoàn … Xin đồng chí Giảng triển khai tiếp hai vấn đề còn lại.– Anh Ruộng phát biểu –.
Anh Giảng đằng hắng lấy giọng:
- Xin các đồng chí bình tĩnh. Thứ nhất, đó là vấn đề dâu của trường bị hái trộm trong học kì một. Ban Giám hiệu đã biết chắc, anh Quỳnh đã bán cho một xã viên nuôi tằm cá thể. Chúng tôi đã làm việc riêng với anh Quỳnh. Anh Quỳnh không nhận khuyết điểm. Ban đầu là thế. Cuối cùng anh ấy đã nhận.
Phòng họp bỗng im ắng hẳn, rồi lại xôn xao.
- Vấn đề thứ hai,– Anh Giảng lại nói –, đó là vấn đề quan hệ bất chính của cô Xinh với anh Trà, người sửa xe đạp đầu xóm. Ban Giám hiệu đã trao đổi riêng với cô Xinh ít ra là năm lần. Cô ấy nhận khuyết điểm nhưng không khắc phục, lại còn dấn sâu hơn. Đến nay đã vỡ lỡ, Ban An ninh xã đã lập biên bản quả tang. Dư luận của phụ huynh là rất phẫn nộ. Tôi vừa đi họp trực báo ở Phòng Giáo dục. Phòng Giáo dục đã có công văn của Ủy ban xã ta về vụ này.
Chị Xinh cúi đầu, tấm tức khóc. Hình như chị đã có bầu vài tháng, bụng đã hơi lùm lùm.
Nam lắng nghe một vài lời phát biểu. Anh im lặng. Nam thấy không một ai xem đó là chuyện đời tư nữa. Có vài ý kiến khá gay gắt. Hằng ngày gặp nhau là chuyện thân tình, song giữa buổi họp, vấn đề là uy tín giáo viên, uy tín nhà trường. Tâm thế của mọi người trong buổi họp, vì không khí nghiêm túc của nó, đã ở một trạng thái khác.
- Đồng chí Nam!– Anh Giảng lại nói –. Tôi đề nghị đồng chí cho ý kiến, bởi lẽ em Hoàng Thị Ngoan Ngoan, con của cô giáo Xinh chúng ta, là học sinh lớp đồng chí làm chủ nhiệm. Liệu chuyện này có ảnh hưởng gì không?
- Thưa Ban Giám hiệu cùng các đồng chí … Tất nhiên là có ảnh hưởng. Tuy nhiên, tôi cùng một số giáo viên bộ môn đã và sẽ giúp cho bé Ngoan lấy lại tinh thần, niềm tin vào cuộc sống, vào nhà trường. Chỗ dựa của bé Ngoan chính là các thầy cô … Tôi không lo em ấy sợ trường, sợ lớp nữa, mà thấy rằng trường, lớp chính là nơi đã phân biệt rõ, ai có lỗi, chứ Ngoan không có lỗi, và mở rộng vòng tay với em ấy. Nhà trường phải đấu tranh để giành lại một con người, ấy là bé Ngoan. Bé Ngoan cũng đã đấu tranh, tuy thất bại ở gia đình, nhưng đã thắng lợi, chinh phục được bạn bè trong lớp. Do đó,– Nam bỗng ngần nại, rồi với giọng dứt khoát –, mọi quyết định của Hội đồng, của Ban Giám hiệu, Công đoàn nhà trường, và của Phòng Giáo dục, cả của Ủy ban xã đều có thể thực hiện …
Anh Quỳnh mỉm cười, ngẩng mặt lên trời, như cầu nguyện. Với dáng vẻ đó, anh Quỳnh đã vô tình khiêu khích thêm vào không khí tòa án đã tràn ngập trong phòng. Nam nhận ra, hầu như mỗi người đều có một thứ bản năng được gọi là bản năng tòa án, hay gọi chính xác hơn, ấy là bản năng thẩm phán, một dạng biểu hiện của lương tri. Không khí buổi họp khích lệ cho bản năng ấy được tăng cường độ. Chị Xinh cúi gục đầu, rấm rứt khóc.
- Xin anh Quỳnh, chị Xinh cho ý kiến.– Lộc Biếc nhắc –.
- Vâng. Xin hai người cho ý kiến.– Đồi Hương nói, sau khi ngừng ghi biên bản cuộc họp, cũng với ý định nhắc nhở “bị cáo”. –
- Thể theo yêu cầu, tôi đề nghị anh Quỳnh cho ý kiến trước, sau đó là chị Xinh.– Anh Giảng nhấn mạnh lại –.
Anh Quỳnh đứng dậy:
- Tôi xin nhận khuyết điểm. Cuối năm tôi sẽ gieo thóc, đầu năm học tới, xin được đền bù cho quỹ nhà trường bằng số tiền từ thóc thu hoạch được. Chả là tôi đánh rơi mất tiền, đành làm liều. Thật đáng xấu hổ. Tôi cũng không ngờ cơ sự lại ảnh hưởng đến uy tín nhà trường, đến học sinh, “tập cho các em biển lận, tham ô …”.
Anh Quỳnh ngồi xuống. Lần này, dường như anh ứa nước mắt. Anh cắn chặt môi trên của mình.
Chị Xinh lau nước mắt bằng khăn tay, đứng dậy, không nói được lời nào. Chị lại ngồi xuống.
- Tôi xin nhận hết khuyết điểm. Tôi đã nhuốm bùn, thứ bùn không tẩy rửa được. Tôi xin chịu …– Chị Xinh òa khóc nức nở, nói khi ngồi úp mắt vào chiếc khăn nhỏ trên tay –.
Sau một vài ý kiến, anh Giảng thấy đã khuya, nên lại phát biểu:
- Ban Giám hiệu đã lấy ý kiến chung, xin đề nghị hai biện pháp: Thứ nhất, với anh Quỳnh, là cảnh cáo, buộc đền bù, bởi lẽ tuy giá trị vật chất chả mấy, nhưng là danh dự nhà trường, sự phản tác dụng trong việc giáo dục học sinh, ảnh hưởng cho các em về sau. Thứ hai, đề nghị chị Xinh thôi đứng lớp làm chức năng giáo viên, mà từ ấy sẽ làm công tác thư viện, cấp dưỡng, còn cô Nhân sẽ đứng lớp giảng dạy thay, đồng thời giúp đỡ cho chị Xinh về nghiệp vụ thư viện.
Nam thấy chị Trâm, cô Lài hơi ngạc nhiên. Phòng họp lại khẽ xôn xao. Đồi Hương là thư kí Hội đồng, vẫn cắm cúi ghi biên bản, mặt lộ vẻ căng thẳng, xúc động.
- Tôi sẽ xin ý kiến của Phòng Giáo dục về vấn đề cô Xinh.– Anh Giảng lại phát biểu –. Phòng Giáo dục rồi sẽ có quyết định bằng văn bản cụ thể. Ai có ý kiến gì khác?
Lộc Biếc hồi hộp về vụ chuyên đề của mình. Cô đảo mắt nhìn quanh, rồi nhìn anh Giảng, cô Lụa. Cái sọ người thật như vẫn nhìn cô chằm chằm. Bất ngờ, Ka Kring ghé tai Lộc Biếc:
- Sao lại soạn giáo án ở đây! “Đế” lại vòng tròn đỏ nữa, hở Lộc Biếc! … Ồ, thắng Trung Quốc, giải phóng Nông Pênh (Pnom Penh) rồi! Quân mình sắp rút khỏi Căm-pu-chia (Campuchia) rồi!
Lộc Biếc gấp cuốn sách cô vô ý mở ra trên tay nãy giờ.
- Đâu có, nếu không họp Hội đồng, tối nay mình đi dạy bổ túc cho ông Binh.– Cô đáp khẽ –. Còn vòng tròn đỏ này, mình lỡ tay, vẽ bút bi vào sách …
- Tính chiến đấu tối nay ở đây cũng thể hiện tinh thần yêu nước rồi.– Ka Kring lại nói, giọng vừa thật vừa đùa. Cô chợt hẫng khi thấy mình vừa nói câu ấy –.
- Ka Kring! Đúng cũng đúng, nhưng đừng đùa. Im lặng nghe.– Lộc Biếc lại nói khẽ –. Trông chị Xinh khóc kìa …
Anh Giảng tuyên bố cuộc họp kết thúc. Tiếng khóc của chị Xinh òa ra. Mọi người muốn chia sẻ với chị, song chẳng biết nói sao. Anh Quỳnh đi nhanh ra khỏi phòng họp. Nam thật lòng không thể hiểu được anh Quỳnh. Vụ vừa được đưa ra, thấy thật bất thường với tính cách của anh Quỳnh. Nhưng tại sao đó là sự thật?! Ka Kring bỗng quá hối hận, sao cô lại nói đùa một câu cũng bất bình thường, không đúng chỗ đến thế, vừa thể hiện sự vô tâm, vừa xúc phạm đến một vấn đề thiêng liêng, tuy không phải là sai. Còn Lộc Biếc, cô thở phào nhẹ nhõm.
Đồi Hương đứng dậy:
- Đề nghị các đồng chí cho tôi đọc lại biên bản trước Hội đồng đã!– Đồi Hương cầm cuốn sổ bìa đen to tướng đưa cao.– Đề nghị đồng chí Quỳnh trở lại phòng họp, đồng chí Quỳnh ơi!

33

Cam Ly đã khỏi bệnh được một tuần. Sau mấy ngày cảm gió, cô giáo trẻ vui nhộn này đã hồng hào trở lại mặc dù hơi trầm ngâm, đôi mắt thoáng nét u buồn. Nhóm giáo viên vốn kết tình thân lâu nay lại tổ chức một cuộc đi chơi ngoài trời. Hoán bận ôn tập thêm hai môn phụ ngoài môn chính, mấy năm qua anh ít để ý tới. Sáng chủ nhật này lại phải thiếu mất Hoán. Bảy người thong thả bước ra khỏi nhà tập thể. Khi đi ngang trụ sở Ủy ban nhân dân xã Bảo Nghĩa, họ thấy một tấm băng rôn màu đỏ, với dòng chữ vàng căng trước hành lang. Đó là câu khẩu hiệu chống bành trướng Trung Quốc, động viên thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự. Buổi lễ sáng mai mới khai mạc. Hình ảnh này nhắc nhở về mặt trận biên giới ở hai đầu Tổ quốc.
Nam bỗng im lặng khi bước qua khoảng sân rộng này. Họ đi về phía xóm của Hạ, lại men theo con đường mòn khoét sâu vào sườn đồi đất đỏ. Trên sườn đồi là những luống dâu xanh ngắt lá. Cầu treo vắt qua con suối đá, từ lưng đồi này sang lưng đồi kia. Họ lại cẩn thận bước xuống con suối đang róc rách chảy.
Một làn nước mỏng cỡ hơn gang tay hoặc bằng lóng tay đang róc rách tuôn chảy qua các hòn đá, tảng đá màu xám. Không khí hồn nhiên, vô tư của thiên nhiên tràn vào tâm hồn mỗi người, xóa đi những ưu tư, băn khoăn, mệt nhọc.
Cam Ly trở về với bản tính vui tươi, hồn hậu. Cô nói cười không ngớt, khi tụm lại với Nghệ và Khoai.
Ka Kring ngồi bên cạnh Nam, nhìn Huyện và Lộc Biếc đang trò chuyện với nhau trên một tảng đá như thạch bàn giữa lòng suối cạn. Bên kia cầu treo là đồi núi hoang sơ, sâu hơn vào trong là rừng. Tiếng chim từ núi rừng vọng về, hòa tiếng suối róc rách đã xoa dịu những căng thẳng do những công việc ở trường học. Nam bỏ đôi dép được gọt từ lốp xe cỡ lớn, một đôi dép lốp phẳng và sắc sảo, không cong vồng như mo cau, với hai quai chéo bằng đai vải ni lông rất bền, cho hai bàn chân dầm vào nước lạnh. Nam nhìn đôi bàn chân rất xinh của Ka Kring trong đôi xăng đan nhựa trong. Nước suối cuốn đi các hạt đất ba dan. Ka Kring trêu Nam bằng một câu đối mấy năm nay truyền tụng bởi dân gian:
- thầy giáo tháo giày mang dép lốp
nhà trường nhường trà uống nước trong

– Cô cười sau khi đọc xong, lại nói tiếp –. Anh Nam có thích chơi chữ kiểu nói lái như vậy không?
- Chơi chữ dạng nào cũng rất giỏi về nghệ thuật ngôn từ, nhưng phải quang minh chính đại. Nó cũng phản ảnh cái tài, cái tâm. Không riêng anh, ai cũng ghét trò ba que xỏ lá, thâm độc một cách ti tiện, láu cá. Những con chữ viết bằng thuốc độc là trò chơi hạ cấp, nhỏ nhen, gian ác … Hai câu đối vừa rồi là phê phán vừa hay, vừa minh bạch, tuy cũng phản ánh cách nhìn … Hồi đầu năm, bấy giờ Ka Kring chưa về trường, trường có tổ chức một buổi báo cáo chuyên đề. Trong buổi báo cáo chuyên đề ấy, Lộc Biếc chưa dám xoáy vào khía cạnh đó … Văn học dân gian hiện đại, khách quan mà nói, rất hay!– Nam cười, lại nói về đôi dép lốp dưới chân mình –. Ở vùng này, đi dép da, chắc chỉ được ba bữa là vứt!
Nam co chân lại, ngồi xếp bằng trên tảng đá. Cô gái lai xinh đẹp, thon mọng trong áo váy thổ cẩm, đang phả theo gió một làn hương tự nhiên khiến Nam bổi hổi bồi hồi. Mấy lâu nay, Ka Kring đã xóa hết nơi tim anh hình bóng Sông Hương xa, Lộc Biếc gần. Ka Kring trở thành một lối thoát cho tình huống khó xử. Nam yêu Lộc Biếc. Anh hiểu Khoai say đắm Lộc Biếc. Nam cũng biết Lộc Biếc đã dần dần thay đổi chàng trai đào hoa, giỏi tán tỉnh, chỉ thích chinh phục các cô gái, với dáng vẻ đẹp trai và óc thực tế, tên là Huyện thế nào. Nam nhìn Khoai đang lắng nghe Cam Ly kể chuyện gì đó, anh thấy trong vẻ mặt ngỡ đang bình thản, vui vẻ kia cả một nỗi cô đơn, đau đáu buồn. Đó có thể là cái nhìn chủ quan. Ngay cả Nam, anh cũng không thể hiểu chính anh. Giữa Nam và Ka Kring thật đã có gì đâu, chỉ là những lời bông đùa nửa hư nửa thực. Lộc Biếc đằm thắm, kín đáo, không ngổ ngáo một cách dễ thương như Ka Kring, nhưng Nam cũng biết, Lộc Biếc với Huyện, giữa họ, chỉ là tình bạn ở mức độ thân thiết.
Nam bỗng dưng rơi vào ngẫm nghĩ bâng quơ. Ka Kring hình như đang hồn nhiên lắng nghe để phân biệt tiếng chim hòa trong bè trầm là tiếng suối.
- Anh Nam lâu nay có làm được nhiều thơ không?– Ka Kring khẽ hỏi –.
Không trả lời, Nam đọc:
- chóp núi hừng đông tràn nắng sớm
gió mùa ngân nga trên nương rẫy vàng
Ka Rem hát cho mình đứng ngó
Tiếng lồ ô – bè trầm – truyền theo dây mây âm vang … (40)

- Ka Rem là ai vậy? Không hiểu, chỉ cảm và ngó cô gái hát với giàn lồ ô đuổi chim thôi sao?
- Ka Rem là một cô giáo thoáng gặp. Ừ, cảm và ngó. Chắc anh phải học thêm tiếng Chiau Mạa với Ka Kring. Đồng ý chứ?
- Anh Quỳnh đã bổ sung vào kế hoach tự học tập thể món này rồi.
- Học riêng hai người với nhau kia!– Nam gạ gẫm –.
- Bao giờ bắt được cái chồng là anh Nam, sẽ ngày đêm nói tiếng Chiau Mạa cho anh Nam học!– Ka Kring lại bật cười khanh khách –.
Một lần nữa, Nam ngẩn người.
- Bắt cái chồng cái vợ thì rất hay, nhưng lấy gì để sống! Lương tiền thiếu trước hụt sau …– Nam cười –.
Ka Kring lại cười khanh khách.
Một vài người vào rừng, đang bước trên cầu mây khẽ lung lay. Bỗng một người đứng lại giữa cầu:
- Thầy giáo Nam! Chào các bạn …
Nam nhìn lên. Đó là anh Trà. Có lẽ anh ấy đang vào rừng hái củi. Anh Trà vác xà gạt đi ngược lại. Bên hông anh là một lon nhôm cơm, một chai nước.
- Xuống đây chơi cho vui, anh Trà ơi.
Anh Trà quay lại múi cầu bên này, men triền dốc, bước xuống suối đá. Nam nghĩ, chẳng lẽ anh Trà chưa biết gì về quyết định của Ban Giám hiệu và Phòng Giáo dục sao.
Nam đứng dậy, bước qua suối nước cạn, lên bờ bắt tay anh Trà. Tám người cố giữ nét mặt vui vẻ chào nhau, xem như không ai coi chuyện ấy là vấn đề nhức đầu, hay cứ cho là nhức đầu đã khỏi.
Khi cùng ngồi trên tảng đá phẳng giữa lòng suối, Nam mới thấy nét mặt hốc hác của anh Trà. So với mấy tháng trước, bây giờ anh Trà hốc hác quá: đôi mắt hõm vào, nhiều chân râu bạc hơn. Sau phút cố gắng vui vẻ, anh Trà nom ngượng ngập.
- Lâu nay vẫn bình thường trong công việc chứ, anh Trà?– Nam thân mật hỏi, muốn xin lỗi anh Trà về sự gắt gao hôm nọ –.
- Định gặp các bạn nhiều lần, nhưng rồi thôi. Hôm nay tình cờ …– Anh Trà mỉm cười với Ka Kring, và đảo mắt nhìn Nghệ –. Hai bạn mới về trường đầu học kì này …– Anh Trà cũng không phải hỏi, cũng không nói tiếp cho trọn câu –. Sáng nay định vào rừng hái ít củi đun, không ngờ …
- Thế càng vui.– Ka Kring bặt thiệp –. Em nhiều lần đi qua quán anh Trà, định ghé vào …
- Cô Ka Kring …– Anh Trà đã biết tên –… hình như nhà ở Đa Công?
- Vâng. Anh Trà thỉnh thoảng vẫn phải ra đó chứ?
Anh Trà mở đai quanh lưng, đặt lon cơm, chai nước trên một gờ đá để khỏi bị lăn xuống suối.
- Để sơn xe cho khách, mua hàng quà, cũng để trình diện công an. Tôi đang trong thời gian bị quản chế.
- Sao vậy anh?– Nam ngạc nhiên –. Anh được miễn cải tạo lao động tập trung, có quyền công dân ngay sau Ngày Giải phóng mà.
- Cũng đúng vậy. Có điều, sau đó lại bị cải tạo một năm vì bị tình nghi dính vào phong trào “phục quốc”. Khổ thế!
Anh Trà ngập ngừng, rồi nét mặt anh trở lại sắt đanh hẳn, như phải cố gắng đương đầu với ngặt nghèo:
- Có lẽ cô Ka Kring và các bạn đây đều biết chuyện, nên tôi cũng muốn các bạn thông cảm cho.– Anh Trà cúi đầu ngẫm nghĩ –. Sai lầm này dẫn đến sai lầm khác. Gốc gác mấy đời trước của tôi là “phù Lê”, “tả đạo” Bắc Kì. Tôi là dân di cư, học triết, dạy triết, bỏ đạo Chúa, nhưng lại là sĩ quan đào binh ngụy, dẫu sao vẫn sợ bị thủ tiêu, “nhổ cỏ nhổ tận gốc”, nhất là thời điểm chiến tranh biên giới. Tôi không muốn liên lụy đến ai, nhất là sau một năm bị cải tạo ở Đạ Bình. Có điều, cuộc sống lại dẫn đến những dan díu, để rồi gây khổ cho người khác.– Anh Trà nghẹn ngào –. Tôi những muốn cô Xinh đừng để lại mầm sống trong lòng cô –. Như thể cần phải trút bớt nỗi niềm, sự dằn vặt, anh ta tiếp –. Nhưng cô ấy không chịu. Cả bé Ngoan cũng thế, nó không chịu phạm tội “giết người”, mặc dầu nó căm ghét tôi.– Hai dòng nước mắt chảy ràn trên gương mặt người đàn ông ngoài tuổi bốn mươi –. Tôi thật lòng nhục nhã lắm. Nhưng cô Xinh lấy tôi làm gì, cho khổ nhục bây giờ và sau này. Tôi không “phục quốc” cho chế độ Diệm, Thiệu ngụy tặc. Diệm, Thiệu chẳng qua là cùng một giuộc với Tạ Văn Phụng, Trần Lục “phù Lê”, “tả đạo” dưới thời Tự Đức – Hàm Nghi. Tôi hiểu điều đó chứ. Tôi chỉ manh nha ý tưởng tự vệ mà thôi, bởi tôi cứ bị ám ảnh sẽ bị thủ tiêu … Dẫu sao tôi cũng có lương tâm, lương tri, tôi chỉ muốn sống độc thân, không muốn ai liên lụy vì mình … Có lương tâm, lương tri, nhưng phải bảo cô Xinh phá thai! Không phải tôi trốn tránh trách nhiệm, lường gạt ái tình … Mà thế cũng phải, tôi “giết” con tôi ngay từ trứng nước để “cứu lấy trẻ thơ”, là bé Ngoan, và cứu vãn sự lầm lỡ di họa về sau cho cả mẹ lẫn con cô Xinh.– Anh Trà nói như tuôn ra từ sự giày vò đau đớn –. “Giết người” để “cứu người”, “cứu lấy trẻ thơ” như anh Nam hôm nọ có bảo tôi, nhưng theo cách của tôi … Biết làm sao được! Nhưng … biết làm sao đây!
Nam hốt hoảng, bối rối với các chữ “nhưng” của anh Trà:
- Không. Tôi không hề bảo anh “cứu lấy trẻ thơ” kiểu đó. Tôi muốn anh kết hôn với cô giáo Xinh, danh chính ngôn thuận, vì nhân phẩm nhà giáo của cô ấy, vì danh dự gia đình bé Ngoan, hoặc dứt hẳn quan hệ. Tôi nào ngờ cô Xinh đã mang thai. Tôi chỉ chấp nhận phá thai trong trường hợp mẹ mang bệnh, hoặc dự đoán quái thai, hoặc bị … hiếp dâm …,– Nam lúng túng –, nghĩa là chỉ vì lí do sinh thể hoặc bị cưỡng hiếp … Tôi là người vô thần, duy vật nhưng tôi cũng là người yêu công lí, nhân đạo, dẫu là công lí và nhân đạo cho một mầm sống, một sinh mệnh con người còn trứng nước …– Nam thảng thốt đính chính –. Phải hạn chế đến mức tối đa sự phá thai …– Đôi môi Nam run run –.
- Tôi hiểu ý anh Nam chứ. Nhưng tôi lại quan tâm đến sinh mệnh chính trị của mầm sống, của tương lai con bé mười ba tuổi là Ngoan …– Anh Trà như trút được nỗi giày vò, trở nên bình tĩnh –. Xin đừng căm hận Trương Quy Trà này. Thôi, xin chào anh Nam, cô Ka Kring, cùng các bạn.
Anh Trà định mang chiếc đai có móc lon cơm, chai nước vào quanh hông. Nam ngăn tay anh Trà:
- Vâng, chúng tôi được hiểu anh … Tôi không ngờ anh suy nghĩ sâu xa đến thế. Có điều …
Ka Kring sững điếng từ nãy đến giờ. Huyện, Lộc Biếc, Khoai và Cam Ly cảm nhận được điều anh Trà và Nam đang nói, mặc dầu nghe tiếng được tiếng mất. Cả bốn người định bước qua chỗ Nam, tiếc là tảng đá Nam cùng Ka Kring ngồi quá nhỏ, nay có thêm anh Trà. Vả lại, thấy chừng như anh Trà chỉ muốn nói riêng với Nam, bước qua nghe cũng bất tiện. Họ ngồi sững sờ nhìn suối róc rách chảy vô tư dưới chân.
- Có điều …– Sau một lúc suy nghĩ, Nam nói tiếp –. Anh ngộ nhận hơi nhiều. Lúc này, người ta đang chống “chủ nghĩa cộng sản văn minh” kiểu phát xít của Pôn Pốt, I-êng Xa-ry, chủ nghĩa Mao, trên đài, trên báo, anh chẳng để ý sao? Không hề có tắm máu, cuốc bổ đầu người ở Việt Nam … Tôi nghĩ, lẽ khác, anh nên “cứu lấy trẻ thơ” một cách tích cực hơn. Nhân đạo, có lương tâm, lương tri một cách thức thời, tích cực hơn … Vâng, cứu đứa con của chính anh, của cô Xinh, đang còn là bào thai một cách tích cực hơn … trung thực hơn … Anh Trà à, không có lỡ lầm nào không cứu vãn được … Tôi tin vậy.– Nam lại đính chính –. Còn những kẻ hiếp dâm phải bị tử hình …
- Anh biết không, buồn đau, tủi nhục trong khi có bầu, rất ảnh hưởng đến thai nhi, anh Trà à …– Ka Kring lại nói –. Lẽ ra anh phải tìm cách để chị Xinh được hạnh phúc, vui tươi, yêu đời lúc này …– Ka Kring hiểu Nam đang bối rối –.
Anh Trà nói lời chào, vội vã mang đai vào hông, cầm xà gạt, rảo bước, men lên triền dốc. Nam thấy anh Trà suýt ngã hai lần. Rồi anh đi như chạy qua cầu treo, mặc tiếng gọi của Nam và Ka Kring. Đến bên kia cầu, anh Trà y như một người cuồng, nói to:
- Con tôi không thể bị giáo dục kiểu nhồi sọ, một chiều, bị tập các phản xạ của lũ cuồng tín, ngu trung, thiếu trung thực và không có ý niệm trung thực, sản phẩm của những tên cố đạo Lơ Gơ-răng đờ La-li-ray (Le Grand de la Liraye), Puy-di-ni-ê (Puginier), Gô-ti-ê (Gauthier), sản phẩm của Mút-xô-li-ni (Moussolini), Hít-le (Hitler), Minh Trị (Meiji) … Tôi cũng căm thù sự phá thai, chích thuốc vô sinh để tuyệt trừ hậu họa của người Mỹ đối với dân da đỏ. Nhưng … các thầy cô thử nghĩ về giáo dục bây giờ xem!
Anh Trà bỏ chạy vào rừng hệt người lên cơn điên. Bảy giáo viên trẻ lặng người. Không ai nói lời nào. Con suối đá đêm khuya nào bé Ngoan đã vô thức bước như kẻ mê sảng, mộng du tìm đến vẫn vô tư róc rách chảy. Mặt trời lên khá cao. Thoảng gió. Hơi nước, hơi đá dưới lòng suối vẫn tỏa lên. Nắng vàng rực rỡ lạnh.
- Qua chỗ Cam Ly đi Ka Kring, anh Nam!– Lộc Biếc nói –.
Ka Kring nhìn quãng nước sâu, vội mở váy, vắt lên vai. Cô bước xuống, nước suối chỗ sâu nhất chỉ ướt đến bắp chân. Màu đen vải ka ki ở ống quần Ka Kring thẫm lại, đẫm nước. Nam đã bước ở phía trước. Chỗ Nghệ, Khoai, Cam Ly ngồi là một tảng đá lớn, khá phẳng, bị nứt nhiều đường. Khi Nam, Ka Kring đã ngồi cạnh ba người bạn, Huyện, Lộc Biếc cũng vừa bước lên.
- Thôi, gì thì gì, cứ lai rai chuối cái đã.– Khoai nói, mở túi xách, nhặt ra mấy chục quả chuối, vỏ mỏng tanh, vàng tươi, rất ít các vết đen, ruột ngọt chua.
- Chuối pom (pomme), chuối ngọt ngọt chua chua như táo (pomme) đây, có phải không?– Lộc Biếc hỏi –.
- Có thể là “chuối táo”. Cũng không rành lắm, nhưng chắc chắn đều là họ nhà chuối cả.– Khoai nói –. Tình cờ lại gặp anh Trà … Chắc ông ấy bức xúc lắm, muốn phân trần.
- Con người ấy dẫu sao cũng trí thức, kể ra cũng trung thực khi nhìn nhận lịch sử, về các cuộc nổi loạn do các tên phản quốc “phù Lê”, “tả đạo” cầm đầu hồi nửa sau thế kỉ mười chín. Ông ta cũng cỡ tuổi thầy giáo bọn mình, thế mà bị dồn đến chân tường, đâm ta dở mất.
Ka Kring tường thuật lại những mẩu đối thoại của Nam và anh Trà vừa rồi. Cô mỉm chi:
- Anh Trà-Rơ-mác, như các bạn gọi, xem ra chẳng Rơ-mác chút nào. Vâng, ông ấy quả đã bức xúc tột cùng! Cứ như phát cuồng. Hình như ông ta ngụy biện về thái độ đối với cô Xinh? Có phần như thế không?
- Mình cũng giật mình đấy. Giải lao một chút, lại thêm mệt lòng. Chẳng lẽ ông ấy lên án nền giáo dục của mình, cả “chủ nghĩa lí lịch”, sự “xâm lược của Miền Bắc”?– Lộc Biếc băn khoăn –. Chẳng lẽ ông ấy không xác định chế độ ngụy của Diệm – Thiệu, chế độ cách mạng của Bác Hồ – Lê Duẩn, bên nào là chính nghĩa?
- Lộc Biếc không nghe rõ đó thôi. Về chính nghĩa hay phi nghĩa, anh ấy phân biệt được chứ! Anh ấy gọi chế độ Diệm – Thiệu là ngụy tặc, cùng một giuộc với các cuộc nổi dậy ở Bắc Kì của các tên như Tạ Văn Phụng, Trần Lục, nhằm bán nước, làm tay sai cho Pháp và các tên thực dân đội lốt cố đạo hoặc cố đạo mang bản chất thực dân, hồi nửa sau thế kỉ mười chín. Sống trong đời sống, cần có sự phản tỉnh. Anh ấy ít nhiều cũng đã phản tỉnh, nhận thức đúng hơn trước. Biện chứng của hiện thực sinh động, gồm cả các quan hệ, là thế đó. Mình dạy học, sợ cuộc sống, làm sao dạy được, giải quyết các vấn đề học sinh vướng mắc được. Về các khía cạnh khác, anh ấy nói hơi quá, vẫn có vài mươi phần trăm đúng. Phải trung thực nhìn nhận như vậy.– Khoai nói –. Phải trung thực vì cái chung!
- Đúng là cơ bản, sai lệch là tạm thời. Đó là về nội dung và phương pháp giảng dạy hiện nay của bọn mình, nếu đánh giá nghiêm túc … Anh Trà phê phán cái phần sai lệch về phương pháp giảng dạy, giáo dục hơi cường điệu. Nhưng về nội dung giảng dạy, nhất là về sử học, sách giáo khoa sai lệch không chỉ mươi phần trăm đâu, mà nhiều hơn thế nữa!– Nam bóc vỏ, đưa chuối vào miệng –. Thôi, ăn đi chứ! Người ta chửi, mình cứ nghe, và cảm ơn, nếu người ta chửi đúng. Sai thì Bộ Giáo dục sửa, chúng ta cũng góp phần sửa.
Những người bạn trẻ lai rai nhấm nháp các quả chuối.
- Cuộc sống hiện tại của ông ta, bị bối cảnh lịch sử dồn đến chân tường, buộc ông ta nghĩ vậy, về các lĩnh vực, trong đó có nền giáo dục cách mạng … Đó là lí do tâm thế. Ngoài ra, phê phán “nền giáo dục nhồi sọ”, đó cũng là nội dung của chủ nghĩa chống cộng đấy, nếu cộng vào sự lên án chủ nghĩa vô thần, duy vật và biện minh cho tôn giáo. Chính ông Trà cũng là kết quả của sự nhồi sọ tại Miền Nam,– Nam lại nói –, nhồi sọ bằng nền giáo dục bưng bít, cắt xén, xuyên tạc lịch sử, bằng tâm lí chiến … Nhưng phải thừa nhận ông ta có tự nhận thức lại lịch sử, tôn giáo …
Lộc Biếc thở dài:
- Hãy để cuộc sống trả lời. Ý Lộc Biếc nói là thực tiễn của ngành giáo dục mình, là chất lượng, hiệu quả giáo dục, giáo dưỡng kết tinh ở học sinh. Và phải đánh giá học sinh trong thực tiễn, bằng chính hiệu suất thực tiễn của học sinh. Cãi nhau bằng từ ngữ chỉ là tư biện … Này, hai nhà thơ, viết văn, làm thơ gặp những chất liệu này, làm sao nhỉ?
- Ở huyện Công này, có nhà thơ điên số hai của Miền Nam, rất tài hoa, lấy bà vợ lai Pháp,– Ka Kring bình thản nói –, chỉ cho con cái học tiếng chim, tiếng dế, tẩy chay nhà trường, sách báo kia đấy. Nhưng không phải do bà vợ …– Hình như Ka Kring tự giãi bày …–.
Bảy người bạn đều biết và hiểu điều này. Họ mỉm cười thông cảm.
- Văn chương, giáo dục … đều sản sinh ra con người, nói chính xác là tái tạo con người, để con người đích thực là con người hướng thượng. Mình không hề viết thứ thơ, thứ văn trục lợi, định kiến, chỉ nhắm đến cái lợi cục bộ, chứ không phải vì tấm lòng nhân ái, trung thực, cho hôm nay và mai sau … Văn chương, giáo dục phải vì hôm nay và mai sau …– Nam nói –. Tuy nhiên … Thôi, nặng nề và vô duyên quá … Dẫu sao chúng mình cũng bị hạn chế thời chiến.
Những người bạn trẻ im lặng. Tiếng suối vẫn vô tư, róc rách chảy. Nắng lành lạnh, vàng tươi, rực rỡ. Nam nghĩ, Ka Kring quả là một cô gái lai lạ lùng. Anh đọc được ở cô một niềm tự tin, tự hào, và sự ngổ ngáo đáng yêu. Chỉ đôi khi, cô thoáng rơi vào mặc cảm lai Tây. Nhưng với vẻ đẹp châu Á phảng phất châu Âu và cả châu Phi, tuy làn da trắng hồng, lấm tấm tàn nhang rất nhạt, tóc hơi hoe vàng trên sắc nâu, Ka Kring biết mình đẹp. Nhưng như vậy chưa đủ, phải có một điều gì nữa ở cô mà Nam chưa hiểu thấu. Và buổi sáng hôm nay, những nỗi đời ập vào anh cơ hồ không theo một lô gích nào như cuộc sống vốn thế, khiến Nam cũng bất ngờ. Băng khẩu hiệu màu đỏ chữ vàng, động viên thanh niên vào quân đội chống Trung Quốc bá quyền, bành trướng, xâm lược; dép lốp, dép Hải Phòng; tình yêu hay tình bạn; nỗi niềm và nhận thức của anh Trà; những quả chuối có vị táo; và chắc chắn anh cùng các bạn sẽ về lại nhà tập thể, với một số câu hỏi nảy sinh … Vượt lên các sự thể ấy, Nam thấy một lô gích nội tại chung. Đó là cái chất của thời anh đang sống. Hình như mỗi sự thể rời rạc, ngẫu nhiên, đều mang cái chất ấy. Trong nhan sắc cô gái lai Ka Kring anh phân vân yêu mến, trong quả chuối rẻ tiền như cho không, trong tâm trạng bé Ngoan mà anh Trà vừa kể, trong đôi dép lốp, trong nỗi cô đơn của Khoai, của Cam Ly, trong việc nhập ngũ vì độc lập dân tộc … đều có chất ấy. Nam tẩn mẩn với từng sự thể, từng khía cạnh của mỗi sự thể, và Nam nghe trái tim mình xúc động sâu xa. Anh biết anh lẫn bạn bè không hề đứng ngoài cuộc, không hề tách rời khỏi mạch sống đang chảy trên Tổ quốc, thời điểm này.
Nam nhìn dòng suối róc rách, róc rách trôi như một dòng nắng qua các tảng đá, hòn đá đủ hình thù.
Nam bỗng nhận ra, cô học trò bé bỏng tên Ngoan của anh có một tầm cao nhân văn chủ nghĩa, cao vút, đến không ngờ! Nam nhớ hôm nào ở cổng trường Phân hiệu C, bên buôn B’Kẽh, dưới ánh trăng vằng vặc sáng, Ka Kring nói nửa đùa nửa thật với anh những gì. Anh biết mình đang chạm vào nỗi khổ đau của Yêu đương … Không. Không. Anh biết anh chỉ mỗi yêu Lộc Biếc!
Nam nhận thấy dạo này, thỉnh thoảng anh có vài khoảnh khắc tách ra khỏi câu chuyện của bạn bè. Nam cố lắng nghe những tiếng cười nói, và chan hòa vào đó.
Nhưng rồi Nam lại bất giác tự tách ra, chìm vào suy nghĩ của riêng mình. Không. Cũng không thể. Dẫu sao, anh không muốn tình yêu Lộc Biếc của anh lại gây khổ đau cho Huyện, cho cả Khoai. Chắc gì cô ấy yêu anh! Không khéo Nam mất cả hai người bạn lẫn người anh yêu! Còn Ka Kring, tuy anh có ra gì, sao anh lại yêu cô gái lai có nhiều dòng máu thuộc các châu lục xa lạ đến thế, mặc dù anh biết cô là biểu tượng cho thế giới nghìn vạn năm sau, tuy là một biểu tượng còn khiếm khuyết với màu da trắng Âu – Mỹ, màu da không điển hình. Bất giác anh ném vỏ chuối xuống gương mặt anh méo mó dưới làn nước suối, khi đau đớn nghĩ, không cách nào tự cho phép mình yêu Ka Kring được, cho dẫu Ka Kring chiếm lĩnh cả tâm hồn anh một đôi khi nào đó. Nam ngơ ngác thấy một cô gái da vàng nâu, hiện thân của sự hòa hợp tuyệt đối năm mươi ba sắc tộc Việt Nam, bên cạnh bóng anh dưới làn suối – làn suối bỗng dưng phẳng như một tấm gương soi. Anh biết, cô gái ấy ở trong tim anh, nhưng anh chẳng tìm đâu ra trên cõi đời này.
Anh phải là nhà thơ thuần túy Việt Nam!
Nam vui sướng trở lại mạch chuyện bạn bè anh đang sôi nổi trao đổi với nhau, như phát hiện được chiều sâu tâm thức mình.
- Anh Nam bị cảm tình, cảm yêu hay sao vậy?– Cam Ly trêu Nam –.
Nam gật đầu, lại lắc đầu, mỉm cười.
Nhưng rồi, một lần nữa, Nam nghĩ anh bỏ hình bắt bóng, tìm đâu ra cô gái da nâu, tổng hòa huyết thống của năm mươi ba sắc tộc Việt Nam? Được Ka Kring bắt cái chồng là anh, Nam vẫn sẽ là một nhà thơ rất Việt Nam kia mà! Nam biết mình quá chừng vớ vẩn. Không. Nam tự bảo phải tìm cho được cô gái da nâu trong tim anh.
Nam chợt mắc cỡ khi nhìn gương mặt khá duyên của Cam Ly với nước da bồ quân ửng hồng dưới vành mũ rộng được đan bằng sợi lác. Nam buồn cười cho chính anh. Nam không thể tin nổi bản lí lịch đa chủng tộc, đa văn hóa – lịch sử, anh cho là hoang tưởng, là “nhớ bịa” của Ka Kring. Cũng không thể có một nhân phận với căn cước gồm năm mươi ba sắc tộc Việt Nam. Chẳng lẽ cô gái trong trái tim anh chỉ là biểu tượng, và Nam lại đi yêu biểu tượng! Nam thấy sự tổng hòa của các mã di truyền về văn hóa đa nhân tộc – các nhân tộc Việt Nam – mới là điều anh khát vọng: rất dân tộc đã là rất nhân loại. Khát vọng của anh có là khát vọng của cô gái nào anh tình cờ gặp được? Nam hiểu anh còn quá sách vở!
Anh lại nhìn Cam Ly đang hát …
Đợi cô hát xong, anh trêu lại:
- Này, Cam Ly! Chưa biết ai cảm tình, cảm yêu, đến mức phải đắp chăn nằm giường suốt mấy hôm đấy!
Cam Ly biết Nam trả đũa, cô chỉ cười ngượng ngùng.
Hình như Lộc Biếc vẫn còn bị anh Trà khuấy động, cô nhìn Nam:
- Anh Nam có nghĩ anh Trà bị ảnh hưởng bởi các nhân vật bi kịch trong văn nghệ không?
- Sự ảnh hưởng của văn nghệ trong đời sống mỗi con người rất sâu đậm. Không một hình tượng nhân vật cụ thể nào, mà rất nhiều hình tượng, đã tác động. Và tác nhân từ cuộc sống với các cảnh huống, các sức ép, cũng đã tác động. Sống một cách bi kịch đã là thời thượng một thời, khá phổ biến. Hoàn cảnh sống do thời cuộc cũng tạo nên sự tự nhào nặn số phận ở con người. Chủ quan và khách quan, các nguyên nhân, hình thành nên một anh Trà.– Nam mỉm cười –. Anh ấy cơ chừng tự sáng tạo số phận mình như một hình tượng, một cách vô thức! Cứ ngỡ như anh ấy là một nhân vật tiểu thuyết hay kịch nghệ, nhảy ra từ trang sách hay sân khấu trong tâm thức anh ấy! … Văn nghệ xã hội chủ nghĩa lại tạo ra những hình tượng con người, giữa đời, sống theo kiểu anh hùng, kiểu người tích cực hơn, tuy chỉ với công việc bình thường.
- Nền giáo dục của mình có tạo ra người máy, có các phản xạ máy móc là luôn luôn ca ngợi, bảo vệ chế độ một cách mù quáng, kiểu tín đồ chính trị không?– Lộc Biếc cứ xoáy vào vấn đề –. Cái sảy mà cứ nói tốt về nó, sẽ nảy thành cái ung!
Nam cười:
- Lộc Biếc trả lời được mà. Cũng có, khoảng mươi phần trăm, như Khoai đã nói hồi nãy. Không có nền giáo dục phi chính trị … Ở Miền Nam, chúng mình đây từng là những kẻ ngây thơ hoặc sai lạc về chính trị. Và anh Trà đó. Sao cứ vặn nhau thế, cô giáo!– Nam đùa với một cái nhăn mặt và cười –. … Chúng mình cũng từng vô chính phủ thật … Ngây thơ, sai lạc, vô chính phủ là ba loại sản phẩm nhãn hiệu Việt Nam cộng hòa Mỹ ngụy. Nhưng không chỉ do giáo dục của nhà trường, mà còn do tác động của khí hậu văn chương – nghệ thuật và do bối cảnh lịch sử Đất nước, đặc biệt là riêng bối cảnh ở Miền Nam.
Khoai cười, ngâm nga:
- … Tổ quốc ở trong lòng mà có cũng như không
nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng thấy
thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng! … (41)
… quỳ xuống bên đường
tôi hôn cuộc sống
lượng đời mở rộng
nên đời còn thương … (41)
… tôi về với nhân dân như nai về suối cũ
cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
như đứa trẻ đói lòng gặp sữa
chiếc nôi ngừng, bỗng gặp cánh tay đưa … (41)

Lâu nay,– Khoai nói tiếp –, mình chợt nghĩ lại về hai chữ nhân dân. Một phân số nhân dân như anh Trà, cả anh Võ Lâm với một số chuyện tiếu lâm chính trị phản động xuất phát từ dân Hà Nội, và một phân số nhân dân nào đó anh Cao Quốc hôm ở Sài Gòn có nói, thì quả nhiên, khó khăn, gay go thật. Song, mình ngẫm cho kĩ, anh Trà đã sống sâu, nghĩ sâu đến thế, dứt khoát anh ấy sẽ tốt như cụ Chế Bồng Hoan, về chất.– Khoai lại nói –. Và không gì vĩ đại hơn tư tưởng Nguyễn Trãi: “Lấy chính nghĩa mà thắng gian tà, đem chí nhân mà thay cường bạo”.
Lộc Biếc vẫn băn khoăn:
- Chẳng hiểu sao anh Trà này vào Nam đã quá lâu, từ năm tư (1954) lại nói với giọng Bắc nặng âm địa phương đến thế? Đó là điển hình của những người quá sâu đậm với bản quán và bảo thủ, khó thay đổi chăng? Tại sao anh ấy lại tàn bạo thế kia chứ!
Cam Ly vờ giận:
- Lần sau, em chả thèm đi chơi thế này nữa đâu. Cứ bàn chuyện “tuyên huấn” không hà! Thôi, em van nhé, đừng nói chuyện thế này nữa. Hát hò, đùa giỡn gì chi vui đi. Này, nghe Cam Ly hát đây.– Cô nói như van vỉ thật –.
Và Cam Ly hát. Ban đầu, cô vừa cười vừa hát vì chưa nhập thân được vào bản nhạc, dần dần, cô hát với cả tâm hồn. Những giáo viên trẻ hoàn toàn bị Cam Ly cuốn hút. Gương mặt đầy vẻ xúc động như bị chấn động với nhiều khắc khoải của Lộc Biếc dần dần thanh thản, tươi tắn, đằm thắm và dịu dàng trở lại. Một lần nữa, Nam bắt gặp Khoai lén nhìn rồi cúi đầu. Nam nhận ra anh chưa hề thấy ai có một tình yêu riêng tư, đơn phương, thầm kín, cô đơn, lại sâu sắc đến thế.
Con suối đá mãi chảy một dòng bóng tối ban đêm, một dòng ánh sáng ban ngày, tự muôn đời đến muôn đời quanh phiến đá họ đang ngồi hát. Nhưng với bóng đêm, người ta không sống, mà ngủ, ngủ cũng là một cách sống với những gì thu nhận được trong ánh ngày.– Nam lại vẩn vơ nghĩ ngợi –.

Xin xem tiếp phần IV

0 Comments:

Post a Comment

<< Home