TRAN XUAN AN - NGOI TRUONG THANG GIENG

Wednesday, November 23, 2005

NGÔI TRƯỜNG THÁNG GIÊNG (phần II)

TRẦN XUÂN AN

NGÔI TRƯỜNG THÁNG GIÊNG

phần II
(tiếp theo phần I [đoạn 1 – đoạn 10])

11

Nam bước lùi lại, nhìn lên tấm bảng đen, ngắm mấy dòng chữ được cắt dán bằng giấy màu rất sắc nét và đều nét. Anh nói với Hoán:
- Phải thừa nhận cô Đạ Lạc nhà mình khéo tay!
Một cô giáo tay còn bê bết hồ dán mỉm cười:
- Suối Vui hay Đạ Lạc vẫn vậy, một nghĩa, nhưng xin gọi đúng tên cho. Mới lên đây, thầy Nam cũng biết Đạ là nước, là suối, có lẽ nhờ lớp thầy chủ nhiệm có học sinh Chiau Mạa?
- Cô giáo Suối Vui, dòng suối róc rách nguồn vui cho mọi học sinh, giáo viên, đúng chưa? Rồi Đồi Hương, rồi Cam Ly … Xin nói là các cô trang trí rất khéo trong điều kiện của trường mình. – Nam lại cười –. Dịch đùa cho vui ấy mà! Cho chữ Lạc “nhập tịch” Chiau Mạa luôn!
- Thì ông Nam khéo nói. Ai cũng khéo cả, – Hoán nói –, kể cả tôi. Tôi tháo bức vách gỗ ngăn hai lớp, chỉ mình tôi với Hạ, gọn chưa? – Hoán đùa, nhưng tiếng cười khùng khục là tếu nhất –.
Hạ là nhân viên tạp vụ – giao liên của trường. Nam vỗ vai cậu thanh niên mười sáu tuổi này giữa nụ cười của mọi người.
- Hoan hô Hạ, đồng chí trẻ tuổi! – Nam thân mật –.
Các cô giáo, Hoán và Hạ đã lên văn phòng. Nam phải trực, đứng nhìn hai phòng học đã thành hội trường khá rộng.
Sau tiếng kẻng của Hạ, Nam thấy các giáo viên của bốn phân hiệu, kể cả các đội viên của Đội Thanh niên Ánh sáng, cùng các cán bộ xã, khá nhiều phụ huynh đang trên lối xuống trường.
Đại hội đã khai mạc sau lời giới thiệu của anh Quỳnh về nội dung chương trình, thành phần tham dự. Nam nhận thấy ông Binh, bí thư Chi bộ xã, là một ông già khoảng trên sáu mươi tuổi, vóc người to cao trong bộ đồ đại cán đã bạc màu, và người đàn ông khoảng gần năm mươi tuổi, tầm thước, mắt hơi hiếng, áo sơ mi ngã màu cháo lòng là chủ tịch xã.
Anh Giảng nói, đại để xã nhà đang kì thu hoạch, do đó đã gộp hai đại hội làm một, còn đại hội Hội Phụ huynh học sinh như năm ngoái đã bàn, vẫn duy trì Ban Chấp hành Hội và Chi hội như cũ, chỉ báo cáo tổng kết công tác năm trước với kế hoạch năm nay ở cuối buổi. Như vậy, chỉ một buổi, nhưng tổ chức gọn cả ba đại hội luôn thể.
Suốt buổi, Nam thấy ông Binh vẫn là vị quan khách đáng chú ý nhất. Nam bấm tay Hoán, hơi nghiêng đầu vào tai anh:
- Ông Binh có lẽ là cán bộ lâu năm? – Nam hỏi khẽ –.
- Đúng rồi, – Hoán gật đầu –, từ thời chống Pháp đến thời chống Mỹ, bây giờ lại lãnh đạo dân đi khai hoang lập ấp.
- Hoạt động lâu năm, ăn nói khúc chiết, mạch lạc thế sao chức lại nhỏ vậy? – Huyện hỏi khẽ như Nam –.
- Chẳng rõ. – Hoán đáp, mắt vẫn nhìn lên đoàn chủ tịch –.
Nam thấy ông Binh đúng như Huyện nhận xét, hơn nữa, ông lại có tác phong của lãnh đạo. Với giọng Quảng Ngãi, ông Binh phát biểu dõng dạc, từ tốn, thân ái, tỏ ra rất quan tâm đến giáo dục. Như một tập quán riêng của huyện này, ông Binh cũng gọi giáo viên bằng hai chữ “đồng chí”.
- Sao ở đây cán bộ cứ hay gọi giáo viên là đồng chí vậy Hoán? – Nam chợt hỏi nhỏ –. Cả giáo viên cũng gọi nhau như vậy …?
- À, ông phó bí thư Huyện ủy Tư Dũng học tập theo đồng chí Lê Duẩn. Mới giải phóng, ông Lê Duẩn, em ruột của ông Lê Nin, gọi ngay giáo viên Đà Nẵng là “đồng chí”. – Hoán tếu khẽ vào tai Nam –.
- Ra thế! – Nam bật cười trong lòng bàn tay –.
Suốt buổi sáng, Nam cứ suy nghĩ mãi về ông Binh.
Buổi trưa, liên hoan nội bộ chỉ có cơm trắng, gạo mới do Hợp tác xã Bảo Nghĩa tặng, và một ít thịt, Hạ phải ra tận Đa Công mua hôm trước. Hôm nay mới đủ mặt giáo viên, nhân viên và đội viên Đội Ánh sáng, tất thảy gần bốn mươi lăm người. Hầu hết đều còn quá trẻ, mười tám, hai mươi, người lớn tuổi nhất mới ba mươi bốn, là anh Ruộng. Đa số là người Đà Lạt và huyện lị Đa Công. Nam và Khoai bấm Huyện, khi Huyện nói khẽ:
- Lâu nay mới biết, ở các phân hiệu, có nhiều cô quá xinh, lại hát khá hay một số bản nhạc cách mạng. Biết vậy, xin anh Giảng xuống dạy cấp một, qua các phân hiệu mà ở quách!
Lúc giải lao, Nam cũng đã nghe các cô hát, thấy các cô cũng biết chọn nhạc lắm. Nam không có máy thu thanh, suốt mấy năm rồi anh đâu được nghe nhạc mới, chỉ nghe các loa truyền thanh thành phố Huế phát tin với các bản nhạc hành khúc chiến đấu. Khoai cũng gục gặc đầu với Huyện, xem ra anh cũng thích thú. Khoai vẫn lén nhìn Lộc Biếc, nghe nao nao trong lòng.
Sau giấc nghỉ trưa, nghe tiếng kẻng của Hạ, giáo viên, nhân viên, cả hai cô cấp dưỡng nữa, đều xuống hội trường, chỉ một mình Hạ ở lại trực văn phòng – nhà tập thể.
Anh Quỳnh, sau cuộc bầu cử hồi sáng, bây giờ đã là thư kí Công đoàn Trường Phổ thông cơ sở Bảo Nghĩa, đứng lên, rất trang trọng giới thiệu Lộc Biếc, người sẽ báo cáo chuyên đề suốt buổi chiều hôm nay. Tiếng vỗ tay ran lên.
Nam thấy trong buổi này, còn một mình ông Binh là quan khách. Ông đang rút cuốn sổ tay, cây bút bi từ xắc cốt ra, mở sổ đặt trên bàn, chuẩn bị ghi chép.
Với nụ cười rất tự tin, Lộc Biếc ngọt ngào bắt đầu cuộc nói chuyện văn chương với lời thưa lịch sự, phải phép, rất mực khiêm cung. Cô đã chinh phục mọi người ngay từ phút đầu.
Vì Lộc Biếc cố ý giữ bí mật, chỉ trao đổi trước về nội dung với Ban Giám hiệu và anh Quỳnh, vốn phụ trách chuyên môn cấp hai, nên lúc này, Nam, Huyện, Khoai mới biết đề tài Lộc Biếc báo cáo.
Nghe đề tài, Nam và Khoai tưởng chừng rởn tóc gáy vì xúc động. Là người làm thơ, viết văn, Nam lẫn Khoai không những đều rởn tóc gáy mà còn rúng động tận gan ruột, đúng hơn. Đó là điều quan tâm đến mức độ bức xúc nhất của mọi người sáng tác. Cả hai thấy Lộc Biếc khá táo bạo trong thời điểm này. Ngay lúc trình bày các đề mục sẽ xoáy sâu, Nam và Khoai thấy rõ, Lộc Biếc khảo sát cả Nhân Văn giai phẩm, kể cả các biểu hiện “phi chính thống” khác ở Miền Bắc, là đã quá dũng cảm! Lộc Biếc, cũng qua các đề mục, chứng tỏ cô khá am hiểu các dòng văn học ở Miền Nam, từ chống cộng, duy linh – nhân vị, hiện sinh, siêu nhân, thiền học đến đồi trụy, dâm ô, hạ cấp, nhất là dòng văn học phản chiến, thiên tả, dân tộc …
Lộc Biếc còn khẳng định trước:
- … Thưa các đồng chí, chính ở thời điểm cả nước vì mặt trận biên giới, cả nước chống chủ nghĩa Mao, trước nguy cơ các khuynh hướng khác đang và sẽ phục hồi, tôi thấy cần phải dũng cảm một cách khoa học trong thẩm định văn chương …
Nam nói khẽ với Khoai:
- Rất tuyên huấn, rất lập trường, phải không?
Khoai cười:
- Trông xinh đẹp, tươi tắn thế mà ra phết!
Từ đó họ cố gắng không trao đổi riêng với nhau nữa, để bày tỏ sự tôn trọng và ủng hộ buổi báo cáo chuyên đề của Lộc Biếc. Nam chỉ viết một mẩu giấy nhỏ nhờ chuyền lên cho K’Đa, phân hiệu trưởng ở C: “Mong được trao đổi về các em học sinh Chiau Mạa đang học lớp bảy sau buổi báo cáo, nếu còn sớm”. K’Đa ngồi trước Nam hai dãy ghế, quay lại, mỉm cười gật đầu. Sau đó, cũng như cả hội trường, Nam hoàn toàn bị thu hút vào nội dung lẫn cách nói chuyện văn chương của Lộc Biếc. Có lẽ Nam và Khoai bị thu hút mạnh nhất: lắng nghe, ghi chép, với những dấu cảm, dấu hỏi bên lề trang giấy sổ tay (là kí hiệu lưu ý, thắc mắc).
Bằng giọng Sài Gòn ngọt ngào, khá chuẩn, có lẽ do tập luyện, phụ âm đầu v với d, phụ âm cuối c với t, n với ng không trùng nhau, Lộc Biếc trình bày nội dung rất sinh động. Ngữ điệu và cách dùng từ bày tỏ thái độ, cảm xúc với nhiều cung bậc, sắc độ: mạnh mẽ, tha thiết, dí dỏm, châm biếm, sắc lạnh … Lộc Biếc đọc khá nhiều, có lẽ từ thời cấp hai, cấp ba, chứ không phải chỉ trong bốn năm đại học, kể cả mảng sách dịch đã ảnh hưởng vào văn học hai miền. Lộc Biếc khái quát vấn đề qua những nhận định sắc bén rất riêng trên sự phân tích các dẫn chứng khá sâu. Nhiều lúc Nam sững người xúc động hoặc suýt bật cười thú vị.
Tự do! Tự do sáng tác! Khát vọng vươn tới cái thật, cái đẹp, cái tốt bằng các trang văn, tứ thơ với những biến thiên phong phú, đa dạng: đúng đắn, sai lầm, dũng cảm, thỏa hiệp, tránh né …
Nam lẫn Khoai vẫn mong chờ những điều gì hơn thế nữa ở bài nói của Lộc Biếc, nhưng chính cô rõ ràng còn chấp nhận sự hạn chế. Cả hai thấy hụt hẫng. Lộc Biếc chỉ dũng cảm, mạnh dạn, táo bạo tới đường biên cuối cùng của giới hạn cho phép. Có một điều rất đặc biệt là Lộc Biếc hai lần dẫn chứng bài thơ “Lời mẹ dặn” của Phùng Quán ở Miền Bắc:
… người làm xiếc đi dây rất khó
nhưng không khó bằng làm nhà văn
nguyện suốt đời đi trên con đường chân thật
yêu ai cứ bảo là yêu
ghét ai cứ bảo là ghét
dù ai ngon ngọt nuông chiều
cũng không nói yêu thành ghét
dù ai cầm dao dọa giết
cũng không nói ghét thành yêu

tôi muốn làm nhà văn chân thật
chân thật đến trọn đời
đường mật công danh không ngọt được lưỡi tôi
sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
giấy bút tôi ai cướp giật đi
tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá! (13)

và dẫn chứng hai lần truyện ngắn dã sử của Vũ Hạnh ở Miền Nam: “Bút máu”.
Trước các dẫn chứng đó, cả hội trường, kể cả ông Binh, như một nồi cơm, một nồi súp de máy hơi nước sôi sục được đậy kín hơi. Tiếng vỗ tay ran lên khắp hội trường.
Nam, Huyện và Khoai không có đồng hồ đeo tay, cũng quên bẵng ánh nắng ngoài sân, vì mặt trời phía đầu hồi, chiếu thẳng với đường nóc mái trường, nắng không lọt vào cửa lớp.
Anh Giảng chỉ tay vào đồng hồ của anh, báo hiệu hết giờ cho Lộc Biếc. Có lẽ anh đang lo cho các giáo viên ở các phân hiệu, họ phải đi bộ hoặc xe đạp khá xa trước khi trời tối. Lộc Biếc nhìn xuống chiếc đồng hồ đeo tay đặt trên bàn, cô đã mượn của Suối Vui.
Lộc Biếc mỉm cười, tuy đã “cháy” phần liên hệ đến văn học trong nhà trường. Cô nhắc lại các luận điểm chính rồi từ tốn nói tiếp:
- … Thưa các đồng chí, chân thiện mĩ, ba chữ ấy đã trở thành một từ. Nhưng nhận thức rõ nội hàm của từ ấy, có nhiều vấn đề như đã trình bày, cũng như khát vọng tự do sáng tác (sáng tác là một hình thức lao động trong tâm thế hết sức tự do; nói cách khác, sáng tác chính là động thái tự do; có tự do, sáng tác mới đạt được chân thiện mĩ), khát vọng chính đáng ấy vẫn còn lắm vấn đề. Văn học hai miền của Việt Nam chúng ta đều nung nấu, trăn trở với khát vọng và lí tưởng ấy.
Tôi xin phép nhắc lại một lần nữa:
Ở Miền Bắc, Nhân Văn giai phẩm đã được làm rõ, cũng như đã làm rõ một số biểu hiện “phi chính thống” đã được đăng tải, xuất bản. Tuy nhiên khuynh hương “phi chính thống” truyền khẩu như vè, truyện tiếu lâm chính trị … vẫn đang bị né tránh.
Ở Miền Nam, tôi chỉ xin đưa ra hai ví dụ tiêu biểu: nhà giáo, nhà thơ Trần Quang Long với “Thưa mẹ, trái tim”:
… con sẽ mài thơ như kiếm sắc
chặt đầu văn nghệ tay sai …
dùng chính quả tim là [:làm] trái phá
sống chết một lần thôi …
và nhà giáo, nhà văn Vũ Hạnh với ý kiến khá ấn tượng sau ngày Đất nước hoàn toàn được giải phóng: “… văn học vùng bị tạm chiếm, trong đó có khuynh hướng phản động và đồi trụy. Có thể nhận định riêng về khuynh hướng này: Đó là dòng văn học của cái đầu, rồi của trái tim, sau đó tụt xuống cái bụng và bộ phận dưới bụng, tiếp đến là văn học của đầu gối và hai chân chạy ra hải ngoại” (14). Nhà giáo, nhà văn Vũ Hạnh còn nhận định về văn học cách mạng: “Đó là nền văn học tuy lành mà chưa mạnh vì thiếu sức thuyết phục trong việc phản ánh hiện thực”. Tôi nhấn mạnh: chưa mạnh chứ không phải không mạnh. Vì thế, cần phải thật, thật để tốt, thật để đẹp, thật một cách tốt, đẹp.

Lộc Biếc chậm rãi nhấn mạnh từng chữ tựa đề bài nói của cô trước khi bày tỏ lời cảm ơn. Ông Binh rồi anh Giảng, anh Quỳnh lên bắt tay cô ngay tại bàn viết, chỗ Lộc Biếc nãy giờ đứng trình bày. Ông Binh tỏ ra rất xúc động nhưng vẫn cau mày, bóp trán lúc ra về.
Nắng chiều vẫn còn vàng rực. Mới khoảng hơn bốn giờ chiều.
Nam, Khoai và Huyện lại bắt tay Lộc Biếc với lời chúc mừng rất bè bạn. Gương mặt Lộc Biếc xinh xắn, hơi tái nhợt đi trong vẻ mệt mỏi. Cô bưng li nước trên bàn đã nguội ngắt, uống một hơi cạn sạch. Suốt buổi cô chưa hề nhấp môi ngụm nào.
- Thêm một li đầy nữa chứ? – Huyện rót trà giúp cô –.
Lộc Biếc mỉm cười, lắc đầu. Khoai nhìn ra sân để che giấu một cảm giác pha trộn nhiều cảm giác khác nhau trong anh. Nam đã bước vội theo K’Đa.
Đồi Hương đứng bên cạnh, chuẩn bị dọn dẹp các vật trang trí, khẽ hát một bài ca của phong trào sinh viên học sinh tranh đấu năm nào ở Miền Nam:
… không ai ngăn nổi lời ca
lời tôi ca giữa đêm trường … (15)

Suối Vui, Cam Ly và Hạ cùng mỉm cười.

12

K’Đa ngồi xuống, tì tay vào mép bàn học trò, loại chỉ dành cho hai học sinh ngồi, đặt áp sát vào vách một bên cửa ra vào của gian nhà nam, đối diện với Nam đang ngồi ở bàn học sinh cũng ngắn và đặt như vậy ở phía bên kia. Giữa họ là lối ra vào phòng ngủ tập thể. Có bốn bộ bàn ghế như thế ở hai bên.
Nam quay qua người đàn ông râu muối tiêu, trán hơi hói, ngồi ở giữa dãy bàn ghế học sinh phía sau K’Đa, lưng ghế áp sát vách gỗ của phòng ngủ:
- Chú vui lòng đợi thầy giáo Huyện. Thế mà cứ tưởng sau đại hội hồi sáng, chú đã về B rồi.
Ông Lịch, ủy viên Ban Chấp hành Hội Phụ huynh, bỗng buồn bã, lúng túng hẳn:
- Thưa thầy, tôi mới từ nhà bà con ở xóm này vào lại đây, để tranh thủ bàn chuyện con bé Nhi nhà tôi với thầy Huyện một chút. – Môi ông khẽ mấp máy, hàng râu mép như run nhẹ vì bối rối, xấu hổ –. Nghe đâu thầy Huyện chủ nhiệm thay cô Lộc Biếc hơn một tuần nay rồi? Thầy đây vẫn dạy sử lớp chín chứ ạ?
Nam giấu sự sốt ruột:
- Dạ vâng. Cháu có dạy em Nhi.
- Tôi xấu mặt với Nhi quá. Làm cha, làm mẹ có con dốt vậy, thật …– Ông Lịch gục đầu xuống, nghẹn giọng –.
Huyện vừa lên tới nơi, anh hơi ngạc nhiên:
- Chào chú!
Nam vội chào ông Lịch rồi kéo K’Đa ra chái đầu hồi.
- Tôi muốn trao đổi với anh K’Đa về ba em, K’Bẻo, K’Bri và Ka Tem. – Nam cười thân mật khi hai người đã ngồi xuống ghế –.
K’Đa nhấp nháy hàng lông mi dày, cong vút trên đôi mắt to, đẹp như mắt thiếu nữ. Anh mỉm cười:
- Học sinh cũ của phân hiệu tôi … Tôi còn hiểu khá rõ gia cảnh của ba em ấy nữa. K’Bẻo bị bạch tạng, nó mặc cảm lai Tây, thật ra chỉ do bệnh thôi, Tây đâu mà Tây! Nó học đến năm lớp hai thì mắc bệnh, chạy chữa không khỏi, học kém hẳn. – K’Đa muốn nói gì thêm, nhưng sực nhớ đã chiều rồi –.
- Anh K’Đa! Tôi sẽ đi xe đạp với anh. Tôi muốn vừa đi vừa hỏi chuyện để anh còn kịp về C. Sau đó tôi quay lại.
- Thôi, cứ trao đổi. Trời tối tôi vẫn về C được.
Nam đứng dậy:
- Tôi muốn đạp xe một vòng cho thư thả. Tôi có xe đạp với đèn pha hẳn hoi. – Nam cười –. Vậy nhé?
K’Đa có vẻ áy náy khi thấy Nam nhiệt tình như thế. Nhưng Nam đã vào chái sau dắt xe ra.
- Cứ đạp thong thả như dạo mát ấy mà, anh K’Đa!
- Ừ, thì đạp từ từ …– K’Đa cười, bày hàm răng trắng bóng trong đôi môi màu mận chín, nổi bật trên gương mặt nâu –.
K’Đa to, cao trên chiếc xe đạp cỡ nhỏ. Hai người đạp xe song song ra khu trung tâm.
- K’Bri và Ka Tem học khá lắm. Có điều, chẳng hiểu sao Ka Tem hơi buồn lo điều gì, ngồi trong lớp cứ bồn chồn.
K’Đa gật đầu:
- Tôi hiểu. Tôi tưởng cô Lụa, khi bàn giao công tác chủ nhiệm, đã nói với anh rồi.
- Có, nhưng tôi muốn rõ thêm.
- Anh Nam! Bố Ka Tem theo Phuyn-rô (FULRO.) (16),– K’Đa nhìn Nam –, từ sau Ngày Giải phóng, năm bảy lăm.
- Tôi biết. Bố Ka Tem trước đây là thiếu úy ngụy?
- Đúng vậy. Lúc còn bé, Ka Tem đâu có hiểu gì. Lớn lên, nó sợ. Nghe đâu bố nó đã được phong đến trung tá rồi! Và thật ra, do ông ấy sợ cách mạng nên theo Phuyn-rô luôn đó thôi.
- Má Ka Tem vẫn ở buôn B’Kẽh?
K’Đa gật đầu. Xe đạp hai người đã qua xóm anh Ruộng. Bánh xe Nam suýt xìa vì gờ sống trâu trên đường đã khô bùn. K’Đa cười:
- Đi trời tối phải lưu ý đoạn lồi lõm này …
Nam hỏi lại câu hỏi hồi nãy, K’Đa nói:
- Vẫn ở B’Kẽh, đang có bầu sắp sinh. Vì vậy Ka Tem hơi khó về lương thực.
- Sao lại có bầu? Bố Ka Tem vào rừng rồi mà?
K’Đa phá lên cười:
- Vào rừng sâu, xa lắm. Song má Ka Tem vẫn vào thăm.
Nam cũng cười nhưng cố kìm lại. Hai người đã đi ngang qua doanh trại bộ đội. Trong sân, bộ đội đang đánh bóng chuyền. Con đường trước mặt như rẽ hai một đồi trà rộng và thấp như mu rùa. Nắng đã úa hẳn.
- Còn K’Bri?
- K’Bri vẫn học khá chứ anh Nam?
- Khá đều các môn. Bố K’Bri là thôn trưởng hiện tại của B’Kẽh?
- Anh Nam sâu sát học sinh quá! – K’Đa cười –.
Ra đến đường lớn, khu K đã nằm bên tay trái với các cửa hàng quốc doanh và trạm xá. Nam thấy bóng K’Đa ngã vắt lên xe đạp anh. Nam nói:
- Đến C chắc vẫn chưa tắt mặt trời?
- Còn sớm. Quen đường, tôi đi trong đêm được mà.– K’Đa nhìn qua cặp kính cận của Nam, hơi ái ngại –. Mang kính trắng, anh Nam đừng đi đêm nhé. Gặp mấy tay săn, ngứa tay cò, ngỡ …
- Mắt tôi tinh lắm! … À, ngỡ cọp bị đóng đèn chứ gì?
K’Đa cười lớn, vui vẻ:
- Đúng rồi, đã có người chết vì mang kính trắng đi đêm.
- Hôm nào tôi qua C, anh dẫn tôi đi thăm nhà các em lớp tôi chủ nhiệm nhé. Anh phiên dịch cho thì quá tốt.
- Nhất trí. Tôi chờ. Thôi, anh Nam quay lại đi, kẻo trời tối. Năm nay trường mình có cô Lộc Biếc nói chuyện tốt quá. Hôm nào anh rủ cô Lộc Biếc qua C chơi luôn. Đây, ngả rẽ vào C đây. – K’Đa chỉ về phía một con đường đất đỏ khá rộng –.
- Cảm ơn anh K’Đa. Anh về nhé!
K’Đa đưa tay lên chào, chân vẫn đạp xe. Nam quay xe. Bánh xe lăn trên đường đất ba dan, sỏi kêu lạo xạo. Nắng sắp tắt, nhưng Nam đoán chừng, về đến trường chắc hẳn trời chưa tối. Nam bỗng thấy chưa kịp hiểu thêm gì về ba học sinh Chiau Mạa của anh cả, anh chỉ mới có dịp làm quen với K’Đa, người mà anh biết đã tốt nghiệp khóa đào tạo giáo viên tiểu học ở Buôn Ma Thuột từ những năm bắt đầu thập niên bảy mươi này. Cái chính là sức học và tính nết của các em lúc cấp một, còn gia cảnh chỉ một phần nào, dù trực tiếp tác động. Cái chính ấy anh cần hỏi thật cụ thể, thật chi tiết, lại chưa hỏi được.
Ngang qua một quán nhỏ, Nam thấy anh Trà đang lúi húi dọn dẹp những vành, những lốp xe. Nam định hôm nào sẽ rủ các bạn đến quán cóc này trò chuyện cho vui. Cuộc sống mà!
Bóng Nam đã mờ dần trên đường. Mặt trời sau lưng đã lặn hẳn, tuy nền trời còn sáng. Nam không biết cô Lài cấp dưỡng có nhớ để lại phần ăn chiều cho anh không. Nam thấy đói khi nghĩ đến các chén bo bo xay nhỏ đã nấu chín.
Đang đạp xe, anh chợt nhận ra, mới mấy năm gần đây, anh đã ảnh hưởng nặng “chủ nghĩa lí lịch”, mặc dù anh căm ghét thứ định kiến thiếu biện chứng do “chủ nghĩa phong kiến” ấy.
Nam tin chính nghĩa của cuộc chiến đấu chống thực dân, đế quốc, phát xít, bành trướng cùng với chân lí của chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ thuyết phục được bất kì ai, bởi nói như Tản Đà, ai cũng có thiên lương – lương tri, lương tâm, lương năng (năng lực sáng tạo mọi cái đẹp, bao gồm cái có ích, cho cuộc sống nhân dân và nhân loại). Có bao nhiêu đôi mắt bị kéo mây thời cuộc do tuyên truyền? Lịch sử đã chữa sáng. Chắc chắn sáng.
Nắng chiều hôm Bảo Nghĩa, một ngày tháng mười năm bảy tám ấy, Nam nghĩ, cũng là lúc nắng hừng đông bên kia quả đất. Đó là hừng đông thiên nhiên. Còn với ẩn dụ mặt trời, chính nghĩa và chân lí, đó là Ni-ca-ra-goa (Nicaragua). Mặt trời trên Đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay có bao giờ tắt đâu! Mặt trời chỉ lặn vào giấc ngủ mỗi tối, đó cũng là hừng đông trong tâm thức – hừng đông lần thứ hai của mỗi hai mươi bốn giờ.

13

Cô Lài nghe thấy tiếng gõ cửa chái sau, vội bước ra, kéo then. Ngoài trời đã mờ mờ, trong nhà nhập nhoạng tối. Ánh đèn từ cửa sổ phía sau văn phòng, chỗ anh Giảng ngủ và làm việc, hắt lên mặt bàn ăn tập thể. Phòng của cô Lài với chị Trâm vốn chiếm một phần tư diện tích của văn phòng, nhưng chỉ độc một cửa lớn mở ra phía chái sau. Chị Trâm đã thắp thêm một cây đèn cỡ vừa, bưng từ phòng ra, đặt trên bàn ăn. Một con mèo đực khá lớn, ngồi bên cạnh lồng bàn đậy mâm cơm. Trên lồng bàn là một khúc gỗ khá nặng.
Nam cười, cảm ơn cô Lài và chị Trâm.
Trong khi Nam lặng lẽ một mình bên tô bo bo có một phần cơm trắng, có lẽ do gạo hồi trưa còn lại, với một chén canh cải, một dĩa nhỏ có hai miếng cá khô, Nam nghe bên gian nhà nữ có tiếng anh Giảng hỏi Lộc Biếc:
- Cô Lộc Biếc, cho tôi mượn lại cuốn luận văn tốt nghiệp của cô?
- Dạ vâng. Để làm gì nữa, anh Giảng?
- Luận văn được đánh giá là xuất sắc chứ? Tôi cần đọc kĩ thêm một chút. Tôi hơi phân vân khi thấy ông Binh cau mày bóp trán.
- Có lẽ em trình bày hơi rắc rối, khó tiếp nhận?
- Không. Không phải vậy. Có lẽ chưa phù hợp với ở đây …
Anh Giảng trở về văn phòng, kéo thuốc lào sòng sọc.
Nam mỉm cười, vẫn lặng lẽ nhai cơm rồi cũng chén sạch luôn phần bo bo. Anh chừa lại cho chú mèo đực một ít.
Trong căn nhà nam, Khoai đang hí hoáy viết gì đấy, anh Quỳnh đọc lại biên bản các cuộc thảo luận về kế hoạch xây dựng đời sống tập thể ở các phân hiệu mà anh đã tổng hợp trong tuần trước, cả biên bản đại hội Công đoàn toàn trường ngày hôm nay. Bên cạnh, Hoán, Huyện đang soạn giáo án.
- Tưởng ông ở lại C đêm nay chứ. – Khoai ngẩng lên nói –.
- Không. Mai có tiết đầu phải lên lớp. – Nam trả lời, bước ra hàng hiên –.
Ánh đèn dầu từ ba khung cửa sổ của ba căn nhà hắt ra sân. Bóng tối đã khỏa tràn bốn phía. Xa xa, những ánh đèn le lói như những vì sao trên mặt đất.
Bước vào phòng anh Giảng, thấy anh đang chăm chú đọc, Nam lấy điếu cày dựng trên mặt bàn, se thuốc, châm lửa, kéo đẫy hơi, lâng lâng nhả khói.
- Ông thấy ngày hôm nay thế nào? – Anh Giảng nhìn Nam –.
- Em thấy gọn và có chất lượng. – Nam đáp –.
- Vẫn có người xầm xì là chưa thảo luận được nhiều, chưa phát huy được tinh thần làm chủ tập thể …– Anh Giảng cười –. Nhưng họ đâu biết cách làm việc linh hoạt của mình! Tùy địa bàn chứ!
- Đời mà! – Nam cũng cười –. Anh đọc lại luận văn của Lộc Biếc à?
Anh Giảng đang quan tâm đến phần kết luận của Lộc Biếc. Trước mặt anh là trang viết về Trần Quang Long, Lộc Biếc trích dẫn khá nhiều đoạn với nét bút chì đỏ đánh dấu.
- Đồng chí thi sĩ! Ông thấy quá táo bạo không, khi Lộc Biếc xoáy hơi mạnh về mảng ở Miền Bắc? Bây giờ, tôi mới thấy ngại … Còn mảng Miền Nam, Vũ Hạnh với Trần Quang Long này thì tốt rồi …
- Không có gì đâu anh! Khoa học mà … – Nam cười, nhìn anh Giảng đang lộ vẻ âu lo –. Anh cứ đọc lại đi. Theo em, vậy là mạnh dạn song vẫn đúng hướng. Rất xây dựng. Thôi, em về lo giáo án đã. Không can chi đâu anh!
Nói vậy, nhưng Nam vẫn biết, có nhiều vấn đề chỉ được chấp nhận phần nào ở môi trường đại học, trên tinh thần đại học. Tính khoa học trong học thuật, nhất là ở các khoa xã hội, đôi lúc phải chịu nhân nhượng … một cách phi lí và có hại về lâu về dài.
Nam ngồi vào chỗ của mình, lật ra những trang sách giáo khoa. Anh có đến ba giáo án trong sáng mai. Nam mỉm cười thấy Khoai dạo này đang cặm cụi với truyện ngắn, có điều tối nay Khoai cơ chừng bị phân trí, bồn chồn thế nào ấy.
Đêm. Cao nguyên đang bắt đầu vào mùa lạnh. Mùa mưa vậy là đã qua rồi với tiết trời hơi ấm. Mùa khô ráo mới thật rét. Sương trên mái tôn rơi thành giọt trước hiên nhà. Từng giọt bắt ánh đèn, sáng lóng lánh, treo ngập ngừng ở đuôi sóng tôn rồi rơi thành hàng như dãy lỗ đáo trước thềm đất. Sương đọng thành móc, từng hạt lớn, trên lá cây ngọn cỏ. Nam lại bước ra sân, nghe hơi lạnh phả vào mặt, vào cổ, hai bàn tay cũng cảm nhận rõ hơi lạnh ngọt ngào ấy sau hơn một giờ đồng hồ ngồi bên đèn dầu hỏa.
Đêm đó, cánh nhà nam không thể không bàn về bài nói chuyện của Lộc Biếc hồi chiều. Khoai ít nói hẳn, hình như anh đang thầm lo âu cho Lộc Biếc nhưng không tiện nói ra.
Ngủ một giấc, Nam thức dậy, vẫn thấy ánh đèn bên phòng anh Giảng, và nghe rõ tiếng kéo thuốc lào sòng sọc trong khuya. Nam hiểu anh Giảng đang lo gánh nặng trách nhiệm. Nam cũng nghĩ thầm, sao quá cả lo đến thế! Rồi giấc ngủ lại kéo sụp mí mắt thèm ngủ của Nam cho đến sáng sớm.

14

Dưới nắng trưa, không khí ngoài trời ấm dần lên, hơi lạnh trong nhà thật dễ chịu. Hạ vác vào căn nhà nam một bao nhỏ, đặt xuống chân bàn với nụ cười dưới hai con mắt gần như nhắm khít lại. Nhìn Hạ, Khoai nói:
- Gì vậy Hạ? Coi bộ có gì ăn sao?
- Bắp cuối vụ đó thầy.
Huyện đang lơ mơ nghỉ trên giường:
- Hoan hô đồng chí Hạ!
- Nhà em đang thu hoạch. Nhưng trái nhỏ lắm, cuối vụ mà. Ba em bảo cứ mang lên mấy thầy cô ăn chơi cho vui.
Hoán cười:
- Cảm ơn ông cụ. Bắp rang tươi là nhất, phải không Hạ?
Hoán xuống nhà bếp chẻ củi, trong khi cánh nhà nam lảy ra từng hạt trên rá, chừa lại một số quả nguyên.
Những hạt bắp tươi mọng sữa sem sém vàng đã chín trên chảo. Già một nửa được Hạ bưng qua căn phòng nữ sau khi sớt bớt vào tô cho hai cô cấp dưỡng. Cánh nam ra chái đầu hồi nhấm nháp. Đúng là ngon và ngọt.
Anh Quỳnh bàn:
- Này, kế hoạch nuôi thỏ ở phân hiệu mình, theo lịch công tác, sẽ tiến hành chiều nay. Ăn xong, mỗi người một tay, sẽ đóng chuồng ngay vạt đất bên cạnh thư viện. Nhất trí chứ?
- Ông anh bảo sao bọn em nghe đó. Nhất trí cao.– Hoán đùa –.
Huyện thấy không ổn lắm nhưng thật ra, từ nhỏ đến lớn, anh chỉ ở thành phố, Đà Nẵng rồi Huế, có rành gì về việc chăn nuôi. Huyện vẫn nói: “Nhất trí”! Cả Nam lẫn Khoai cũng nói vậy. Tuy dân nông thôn, họ vẫn chưa thấy ai nuôi thỏ bao giờ. Trong nhà tập thể, chỉ mỗi mình cô Lụa là giáo viên sinh vật, hiềm một nỗi, về phần ứng dụng thực tế, cô cũng lúng túng! Hôm góp ý cho dự thảo kế hoạch công đoàn, cô Lụa tự nghĩ, việc nuôi thỏ cũng giản đơn thôi, và hoàn toàn nhất trí theo tập thể.
Anh Quỳnh hoàn toàn tự tin, lại rất nhiệt tình. Quỹ công đoàn năm ngoái, anh dự định sẽ trích ra một số để mua giống tận Đa Công, rồi chính anh cùng Hạ sẽ chở vào, phân phối đến từng phân hiệu và hộ gia đình ở ngoài. Anh K’Đa, chị Xinh, anh Ruộng, cả Hạ nữa, sẽ nuôi thỏ tại nhà riêng của mỗi người.
- Có nuôi thỏ mới cải thiện được bữa ăn, tăng thêm chất đạm, chất béo ngoài chất bột của bo bo. Lát nữa, các đồng chí hăng hái lên nhé!– Anh Quỳnh vừa nhai bắp vừa nói –.
Anh vốc thêm một nhúm, cho vào miệng rồi ra đứng ở chỗ dự định sẽ làm chuồng, ngắm nghía.
Đó là miếng đất nhỏ cuối chái đầu hồi, gần sát bờ rào, cỏ mọc lưa thưa, chỉ cách chỗ nhóm giáo viên đang ngồi khoảng vài mét.
- Anh đừng sốt ruột! Xong ngay thôi.– Nam nhìn ra, nói với anh Quỳnh –.
Sau khi uống nước, sáu anh em, kể cả Hạ, đi ngang qua gian nhà nữ trước khi xuống sân trường. Anh Quỳnh nhìn vào:
- Các đồng chí nữ lát nữa ra xem chúng tôi làm chuồng thỏ. Còn việc cắt cỏ ống cho thỏ ăn hàng ngày, mỗi người đều có ngày trực cả đấy.
- Nhất trí! Nhất trí!– các cô giáo vui vẻ nói đang khi còn nhai bắp –.
Trên đường xuống trường, ngang qua hai vạt đất trồng dâu, Huyện bảo:
- Chắc dâu của Công đoàn năm ngoái? Cái này coi bộ chủ lực đây. Đây là đất dâu tằm mà.
- Tôi thấy mấy ông cán bộ quy hoạch quá dở.– Khoai bàn chuyện cho vui –. Suối Đạ Nga gần đây lại không đóng trường, buộc giáo viên quá khổ vì nước, phải dùng nước khe, nước ngầm rả rích. Mặt bằng họ cố lấy cho được, cày hết lớp đất màu, khiến cây cối còi cọc. Dâu này lẽ ra khỏi cần phân, nếu đất màu còn giữ được.– Khoai nhìn quanh các vạt đất phẳng trên đỉnh đồi –.
- Hôm nào đi chơi suối Đạ Nga đi! – Nam thích thú –. Nghe các em học sinh nói, Đạ Nga rộng gần bằng con sông nhỏ, nước ào ào, trong tận đáy, khoái lắm.
- Ừ … Bây giờ, mỗi người vác một vác nhỏ.– Anh Quỳnh nói lúc đứng trước đống thân sắn đã róc hết cành và lá, mỗi cây như một thanh gỗ thẳng, còn nguyên mắt –. Đây, thân sắn lớp chín cho đây.– Anh Quỳnh lại nói trong khi các cô giáo dạy buổi chiều nhìn ra –.
Nam và Huyện lẫn Khoai đều hơi lạ lẫm với tập quán canh tác, chăn nuôi ở vùng cao này, nên cứ theo lệnh của anh Quỳnh. Họ vác lên vai, mỉm cười chào các cô giáo từ xa.
Ném bó thân sắn xuống đất, ngoài chái đầu hồi, anh Quỳnh vào chái sau mang ra mấy chiếc xà bất. Xà bất là một loại cuốc lưỡi nằm ngang một phía, còn phía kia là một lưỡi khác, nhỏ hơn, hình tam giác vuông, có thể sử dụng để làm cỏ tận gốc chè. Nông cụ thô sơ này ở miền xuôi Trung bộ không có.
Mấy anh em xớt cỏ bằng xà bất, rất nhẹ lại rất sạch cỏ.
- Cái xà bất này rất hay!– Khoai buột miệng, tay vẫn làm –.
Nam, Huyện cũng thấy vậy.
Anh Quỳnh dùng xà bất vạch một hình chữ nhật cỡ bốn mét vuông, yêu cầu anh em trở lưỡi xà bất đứng lại để cuốc sâu xuống đất, đào rãnh sâu bốn cạnh. Anh lưu ý, cuốc kiểu đó, nên nhẹ tay thôi, kẻo hư xà bất mất.
Lộc Biếc và Đồi Hương ra đứng nhìn nãy giờ. Huyện nói:
- Lộc Biếc ở Sài Gòn, chẳng biết vọc đất, nói gì đến cuốc!
- Em chỉ dùng bay thợ hồ để trồng cây kiểng thôi.– Cô nói, lại cười –. Nhưng nếu cần, vẫn cuốc được chứ sao!
- Vậy Lộc Biếc phải làm chủ nhiệm lại, để học kĩ thuật nông nghiệp với các em lớp chín, bằng chính đôi tay!– Nam ngước lên đùa –.
- Bộ em thua học trò sao!– Lộc Biếc thách thức với cái vênh mặt rất duyên –.
Khoai định nói gì đó, song cứ lúng túng trong miệng đang khi cuốc. Anh cuốc mạnh hơn để che giấu sự bối rối.
- Cuốc đi Lộc Biếc! Bao giờ sần chai bàn tay, tôi sẽ cấp văn bằng lao động nông nghiệp cho đồng chí.– Nam chìa cán xà bất cho cô –.
Đồi Hương phản đối:
- Công đoàn đã phân công rồi, bọn em chỉ cắt cỏ cho thỏ thôi, và hái lá dâu thôi.
Nam chợt hỏi với nét mặt rất phớt tỉnh:
- Công đoàn trường mình mấy năm qua, có cô giáo nào làm dâu chưa nhỉ? Trồng dâu thì nhiều rồi!
Sau mấy giây ngớ ra, mọi người cười giòn giã. Hai cô giáo đỏ mặt.
- Em! Sắp tới Lộc Biếc sẽ nhờ Công đoàn làm đám cưới cho em! Nhưng chú rể lại là rễ chuối hoặc rễ cà phê!
Mọi người lại cười ầm. Khoai giật mình, ngỡ cô nói “điềm gở”.
Đến lượt những thân sắn được cắm san sát bên nhau theo rãnh đã đào. Anh Quỳnh cũng dùng thân sắn để làm nẹp, rồi dùng dây thép buộc lại. Hạ và Hoán đi quanh, dùng thân sắn chèn vào các chỗ còn hở. Thế là xong một cái chuồng thỏ lộ thiên, có một cánh cửa để ra vào. Khoai dùng xà bất làm vật nện, nện cho đất ở bốn đường rãnh thật chặt, trong cũng như ngoài chuồng.
- Các đồng chí thấy đơn giản chưa!– Anh Quỳnh có vẻ hoan hỉ –. Lát nữa, đồng chí Giảng họp ở Ủy ban xã về, sẽ khoái cho xem.
Cất xà bất ở chái sau xong, cánh nam kéo nhau xuống chân đồi để tắm rửa. Tuy chiều đang nắng gắt, nhưng vẫn nghe lạnh. Nước từ ống nhựa cắm vào chân đồi rả rích chảy vào thùng. Cuối mùa mưa, đầu mùa nắng, nước còn khá lắm. Nước trong vắt, lạnh buốt. Có điều, chưa có cô giáo, thầy giáo nào bị cảm lạnh vì nước như nước đá tan ra ở đây. Có lẽ nhờ tất cả đều khỏe và trẻ – phiếu sức khỏe của họ đều loại A.
Huyện vừa dội nước vừa hỏi Khoai:
- Hồi nãy ông vắt chiếc áo trên cột đầu dốc để làm dấu hiệu, có buộc lại không hở Khoai?– Giọng Đà Nẵng của Huyện dường như đã hơi ngấm nước lạnh buốt này –.
- Rồi!– Khoai đáp –. Yên chí! Chả có cô nào, trò nào thấy biển cắm ấy với áo của mình mà dám xuống đây!
Anh Quỳnh cười sằng sặc, nhìn các thầy giáo đánh trần, quần cộc:
- Một lũ vượn-người A 1! Nhất là thầy thể dục có tên là Hoán! Công đoàn còn có chỉ tiêu lập đội tuyển bóng đá đấy!
Nước ở khe nhỏ vẫn thư thả chảy. Chiếc giếng được sắp bằng đá, ngay giữa lòng khe, để tiện thò gáo xuống múc nước, giếng ấy vẫn chưa cần sử dụng đến vào thời điểm này. Dưới chân đồi, nắng khuất, hơi nước bốc lên, nghe mau thấm lạnh. Mấy anh em tắm nhanh rồi lần lượt vào căn phòng tắm nho nhỏ của cánh nữ để thay áo quần. Họ lại nối bước nhau trên lối mòn để lên dốc về nhà tập thể.
Đến đầu dốc, Khoai mở hai tay áo đã được buộc lại trên cọc gỗ có tấm biển nhỏ, khoác áo lên vai.
Một buổi chiều sinh hoạt công đoàn thật vui, năm ấy. Năm ấy, đến năm nay, gần trọn hai mươi năm, ngỡ trong một chớp mắt!

15

Sáng chủ nhật này Hoán không ra thăm nhà ở huyện lị Đa Công. Anh ở lại để cùng anh em nhà tập thể đi chơi ngoài trời. Đạ Nga, hay suối Nga, hơn ba tuần nay là địa điểm cả Khoai, Nam, Huyện lẫn Lộc Biếc dự định sẽ tới chơi trọn một ngày, trước khi đến đợt kiểm tra chất lượng nửa học kì một. Cuộc đi chơi này, ngoài Hoán, còn có thêm Đồi Hương, Cam Ly, Suối Vui, cả các cô giáo dạy năm lớp cấp một ca chiều. Đó là nhị Xuân (Lá Xuân, Đóa Xuân) và tam Thu (Sóng Thu, Hồ Thu, Trăng Thu). Một sự ngẫu nhiên thú vị về sự trùng tên!
Hoán đã nhờ Hạ đi quanh xóm trung tâm để mượn đàn ghi ta, và may mắn là đã mượn được một cây không đến nỗi nào. Anh còn liên hệ với cô Phước, hiệu phó, cũng là nội trợ của anh em, trích ra số bo bo, tiêu chuẩn lương thực, cả mấy kí bột mì, vốn là tiêu chuẩn thể dục thể thao của riêng anh, để bù đổi mì ăn liền, và để làm bánh nướng. Ngoài ra, mỗi người ra quán tự mua thêm chuối, bánh ngọt. Chuối ở xứ này rẻ như thể cho không!
Mười bốn anh em, trừ cô Phước, cô Nhân cùng hai nhân viên cấp dưỡng ở lại trông nhà, bước ra khỏi sân với cả soong, ấm nước, một vài bó củi nhỏ lỉnh kỉnh. Mười bốn nụ cười! Họ đi theo lối mòn từ trường qua khu B. Nắng đã ấm những giọt sương lạnh. Sương tan dần theo gió sớm.
Lộc Biếc hỏi Trăng Thu đang đi bên cạnh:
- Đạ là suối, là nước. Còn Nga là gì hở Trăng Thu?
- Em đâu có biết. Chắc chắn không thể dịch đùa như anh Nam, nửa Chiau Mạa, nửa Hán – Việt như hôm nọ: Suối Vui là Đạ Lạc!– Trăng Thu cười khúc khích –.
- Đạ Nga theo kiểu đó là Suối Ngỗng, Suối Vịt!– Lộc Biếc đùa –. Có thể, Suối Tốt Đẹp, Suối Con Gái …
- Chỉ là cái tên của một con suối theo tiếng Chiau Mạa hoặc tiếng K’Hor, có thể không có nghĩa gì cả (17).
Đường đang bằng phẳng, bỗng thấy trước mắt một con dốc. Hai bên đường, nương rẫy hoa màu đã xơ xác vì đang vào mùa khô, chỉ bạt ngàn dâu tằm xanh mượt, tuy cũng có vài quả đồi bị xói mòn nhiều nên sắc dâu thưa thớt, vàng úa. Tập quán du canh du cư đã từ lâu đốt phá quá nhiều khu rừng nguyên sinh. Những người dân kinh tế mới ở tận Quảng Ngãi vào đây lập nghiệp cuối đường biên của các đồn điền trà, cũng là quãng đầu của những khu rừng đã nhiều năm thành rừng non – những quả đồi mới tự phục hồi sau vài mùa phá rẫy.
Mùa khô, hoa màu chỉ tươi tốt nổi ở các khoảnh đất dưới lũng thấp. Lộc Biếc thấy nhiều bóng người mang gùi mây đang chăm bón cây hoặc quả.
Nghe tiếng suối, Lộc Biếc suýt reo lên. Cô đã cảm thấy cần cởi áo khoác ra, vắt lên vai cho dịu người, nghe đôi chân cũng đã hơi mỏi. Lộc Biếc đợi Suối Vui đang đi tới gần cô, rồi cả hai cùng sóng bước theo Trăng Thu.
- Suối Vui đã lên tiếng đấy! – Lộc Biếc trêu –.
- Vâng. Em cứ thao thao suốt ngày đêm giữa hoang vắng.
Lộc Biếc giật mình:
- Suối Vui sao buồn thế!
- Vui một mình!
- Không có hai mình?
- Chị Lộc Biếc kì quá!– Suối Vui khẽ nhéo tay Lộc Biếc với gương mặt đỏ ửng –.
Lộc Biếc đùa vui thế thôi, nhưng chính lời nói đùa của cô khiến cô cảm thấy chạnh lòng. Lộc Biếc thấy trong tâm hồn mình cũng có một nỗi hoang vắng. Cô muốn quên đi, và dường như cô đã quên được nỗi hoang vắng đến xót xa mấy tháng gần đây. Lộc Biếc không muốn cúi gục xuống lòng mình lúc này, cô vừa đi vừa lắng tai nghe suối Nga đang xôn xao, ào ạt chảy xiết. Đôi chân theo lối nghiêng dốc cứ muốn chạy ngay xuống con suối khá rộng dưới kia.
- Đến Đạ Nga rồi đó.– Lộc Biếc nghe tiếng Hoán từ đằng sau vang tới –. Nhớ “phanh” lại kẻo té nhé! Nhớ bấm các đầu ngón chân xuống đất!
- Theo quy luật vật lí của anh phải không?– Lộc Biếc cười khi nghe Lá Xuân đáp –.
- Đúng vậy! Nếu không Đạ Nga sẽ đưa cô xuống biển luôn!– Hoán nói với giọng trầm, kéo dài từng chữ như tiếng thần rừng trong cổ tích –.
- Đi biển kiểu đó đỡ tốn tiền xe!– Cam Ly cười khanh khách trong tiếng cười của mười ba anh em giáo viên –.
Lộc Biếc đứng sững hồi lâu bên bờ suối. Nước trong vắt, chảy rất xiết qua rất nhiều tảng đá nhẵn. Suối rộng đến bốn, năm mét, có quãng còn rộng hơn thế. Bắc ngang qua con suối là hai thân cây, mỗi thân to cả một choàng tay. Chưa bao giờ Lộc Biếc thấy suối rừng không phải qua phim ảnh, cô ngẩn ngơ trong niềm thích thú.
- Khoai nói đúng. Nếu trường mình và xóm trung tâm nằm ven suối, trên mấy ngọn đồi này thì quá tuyệt.– Nam đứng phía sau, xúc động nói –.
- Rất tình tứ, rất hùng tráng, phải không?– Lộc Biếc vẫn nhìn dòng nước thao thiết chảy –.
Hoán ở bên kia bờ, nói vọng sang:
- Thôi! Lát nữa thỏa sức ngắm. Bây giờ đi tìm chỗ ven suối bên này để quẳng các thứ lỉnh kỉnh đã.
Chỗ được chọn là một khoảng đất khá rộng, có những tảng đá lớn từ dưới đất nhô lên, nhiều tảng rộng như các phản gỗ. Bóng đồi che khuất nắng. Bên dăm gốc cây khá lớn, người ngồi, kẻ nằm nghỉ mệt. Hơi nước tỏa ra dịu mát.
Hoán ngồi xếp bằng trên tảng đá, búng đàn, nhưng không phải hát mà nói lớn:
- Không có chương trình! Ai muốn hát hò ngâm đọc gì thì tùy. Có điều không được đi xa chỗ này, không được tắm.
Và Hoán hát một khúc tình ca. Giọng anh lẫn trong tiếng suối, vọng vào lưng đồi.
- Núi rừng thích thật!– Huyện đến bên Lộc Biếc –.
Cô vẫn ngồi trên tảng đá nhìn suối:
- Thích thật! Sao bây giờ mới biết Đạ Nga, sau hai tháng!
- Lâu nay bận bịu quá.– Huyện ngồi xuống bên cạnh –.
- Thầy Huyện thấy trường mình vui không?– Đồi Hương nhìn anh, vẫn giữ cách xưng hô truyền thống –.
Huyện gật đầu:
- Lúc mới về, hơi nản. Đúng như anh Giảng nói, bây giờ đã vui đất, vui người –.
- Bọn em mới về, thầy Huyện biết không, muốn khóc luôn đó. Nhớ Đà Lạt quá trời.
- Chưa khóc thật à?– Lộc Biếc hỏi –.
- Khóc thật đó chứ.– Đồi Hương xấu hổ –. Đâu có mê mải làm việc như chị Lộc Biếc!
- Mê mải nên suốt tháng nay anh Giảng lo phát sốt!– Lộc Biếc cười –.
- Có gì đâu! Thầy Giảng lo xa vậy thôi. Hôm kia họp phân hiệu, thầy Giảng rào đón cho xong chuyện vậy mà.– Đồi Hương nói, ném một hạt khô xuống suối –.
- Cô Đồi Hương thấy không, hôm họp ấy, Lộc Biếc đã khẳng định, buổi báo cáo chuyên đề ấy chỉ là sinh hoạt trong nội bộ giáo viên trên tinh thần khoa học thôi …– Huyện phân trần giúp –.
Lộc Biếc nói vội:
- Biết vậy, em chả báo cáo đâu! Thật ra, không chỉ phát biểu rõ hôm kia, mà ngay tại buổi báo cáo tháng trước, em vẫn khẳng định, cái gì tham khảo, vẫn tham khảo, còn sách giáo khoa, nền nếp giảng dạy, vẫn là “pháp lệnh”, vẫn là nguyên tắc cơ mà! Em cảm thấy trót làm phiền Ban Giám hiệu, ông Binh với mọi người! Kì quá!– Cô hơi nhăn mặt với chính mình –.
- Nhưng có gì căng thẳng, nặng nề lắm đâu!– Đồi Hương muốn chia sẻ với Lộc Biếc –.
- Anh Giảng còn ra công văn đưa cho Hạ mang đến tận các phân hiệu nữa đó, Đồi Hương biết không?– Lộc Biếc cười –. Chẳng lẽ Đồi Hương là thư kí hội đồng mà không biết sao?
- Công văn gì chị?– Đồi Hương ngơ ngác thật sự –.
- Công văn về việc giải thích rõ lí do gộp ba đại hội lại làm một, và về buổi báo cáo chuyên đề! Anh Giảng muốn khẳng định lại, “sách giáo khoa là “pháp lệnh””, “nền nếp giảng dạy trước nay vẫn là nguyên tắc”, chấn chỉnh sự dao động tư tưởng ấy mà …– Lộc Biếc vẫn mỉm cười tuy giọng nói hơi chán ngán –. Nhưng anh Giảng làm vậy là đúng với cương vị của ảnh …
Tiếng suối vẫn róc rách với dòng nước thao thao chảy xiết trước mặt ba người. Làn nước xé ra bọt trắng khi gặp phiến đá cản.
… em ơi mùa xuân đến rồi đó
thắm đỏ lòng ta sắc mặt trời
nghe xôn xao giữa đời vui
chim én đã bay về
đã bay về … (18)

Trăng Thu đang ôm đàn hát với giọng ca cao vút, trong vắt, bên cạnh Hoán và Lụa. Trăng Thu hết mình với tiếng đàn ghi ta rất điêu luyện, với giọng ca vô cùng truyền cảm của cô. Hoán nghệch mặt ra nom rất buồn cười.
Đằng xa kia, Nam, Khoai và các cô giáo khác cũng quay mặt lại nhìn ngắm. Trăng Thu đang quá đỗi nghệ sĩ.
Rồi vẫn cùng tiếng đàn của Trăng Thu, Lá Xuân hát với chất giọng khàn rất khỏe của cô:
… rất dài và rất xa
là những ngày thương nhớ
nơi cháy lên ngọn lửa
là trái tim yêu thương … (19)

Ngỡ Lộc Biếc đang rối lòng, Đồi Hương nắm tay bạn:
- Nhưng anh Giảng vẫn phân công chị Lộc Biếc làm trưởng nhóm bổ túc văn hóa cho ông Binh cơ mà! Lại còn trợ lí cho anh Quỳnh trong kế hoạch tự học tự bồi dưỡng các mặt của nhà tập thể mình nữa! Có gì đâu …– Đồi Hương muốn Lộc Biếc bớt âu lo – … vẫn phân công, phân nhiệm …
- Thì có gì đâu …– Lộc Biếc cười –. Lộc Biếc chả lo gì cả. Đó là anh Giảng phòng xa thôi. Nghe đâu ông K’Đăng, trưởng Phòng Giáo dục cũng hay chuyện rồi đó.– Lộc Biếc lại quay qua nhìn Đồi Hương –. Cám ơn Đồi Hương nhé. Lộc Biếc chẳng lo gì đâu. Thôi, quên chuyện ở trường đi. Chúng mình cũng phải hát hò gì chứ, anh Huyện?
Lúc này, Hoán vẫn ngồi xếp bằng trên mỏm đá cao nhất. Nhóm của Khoai đằng kia cũng đã đến ngồi quanh Trăng Thu và Lá Xuân. Suối Vui nói:
- Thầy Khoai hát hay đọc thơ đi chứ!
Khoai lúng túng:
- Tôi chỉ biết hát với giọng vịt cồ, lại chẳng biết đàn địch gì cả. Có điều vẫn hát một bài thơ của chính tác giả … là Đỗ Khoai với nhạc của một người bạn hồi sinh viên.
- Đừng lo, em sẽ đệm theo giọng của thầy, hát tới đâu em đệm tới đó.– Trăng Thu búng đàn một cách điệu nghệ –.
- Cảm ơn trước nhé!
má đi chào ai năm mới
áo bay bay gió tháng giêng
tinh sương con gà đã đợi
gáy ran ngoài ngõ láng giềng

bầy chim đứng hót không yên
chuyền cành chíp chiu luyến láy
bươm bướm nhấp nhô nhấp nháy
như là đôi mắt thiên nhiên … (20)

Khoai hát với giọng đầy cảm xúc, song không hề để ý đến tiếng đàn. Trăng Thu phải hoàn toàn theo anh một cách linh hoạt. Nếu không rành đàn và nhạc lí, người khác đã phải ôm đàn đứng ngọng với cách hát rất tùy hứng của Khoai. Dẫu sao, Khoai đã cố gắng khắc phục sự lóng cóng cố hữu của anh. Anh như bị ca từ của chính anh thu hút! Nhưng rồi Khoai bỏ lửng.
Nam cũng “xung phong” ngâm một bài lục bát:
- Cô Trăng Thu đệm ngâm thơ như đàn bầu, đàn tranh nhé!– Anh cười, bày tỏ sự cảm phục Trăng Thu –.
Trăng Thu dạo một điệu nhạc đệm thơ.
bây giờ ngoài mình mưa chưa
con nghe lành lạnh ngày thưa chân người

nhìn sông nước lã trôi xuôi
con như lạc giữa dòng đời đã lâu

bỗng dưng không biết từ đâu
bay ngang trời đất một màu tóc sương

con úp mặt nhớ quê hương
thương sao quán mẹ bên đường mưa bay (20)

Không khí lắng xuống, theo giọng ngâm không hay sao vẫn da diết của Nam. Hoán bỗng nói:
- Đây là Đạ Nga. Tôi còn đoán theo câu Kiều, “đầu lòng hai ả tố nga” , dứt khoát đây còn là Suối Thanh Nữ. Nói theo thơ Tố Hữu, gì đấy …, “suối nghiêng xõa mái tóc dài làm duyên”? À, nhớ rồi, “con sông A Sáp tóc dài làm duyên”, hình như vậy. Nếu suối thanh nữ đẹp thế thì “nước lã người dưng” mới hay, vì sẽ thân thương ấm lòng …– Hoán với nụ cười khùng khục khi khoái chí –.
Tiếng cười của Hoán không lẫn giữa những tiếng cười trong trẻo đang vang lên, dẫu có gì đó như là bối rối, mắc cỡ nơi những giọng cười con gái ấy.
Đã trưa rồi, mọi người nhóm bếp. Ngọn lửa nhảy nhót quanh soong nước sôi. Những gói mì ăn liền được thả vào. Hoán nhặt thêm một ít cành đã khô cả sương và hơi đất ẩm, đặt vào bếp lửa.
Bữa ăn được dọn trên một tảng đá phẳng. Những tiếng cười nói rộn rã ven dòng suối không mỏi mệt, ào ào tuôn chảy. Dăm người đi rẫy về, ngang qua suối, gửi vào tiếng chào với nụ cười.
Lộc Biếc thấy mọi người đã tìm chỗ nghỉ trưa, cô cũng tới cạnh Cam Ly và Đồi Hương bên một gốc cây đang tỏa bóng râm. Dưới gốc cây cũng lổn nhổn đá tảng, có phiến ngả lưng được. Trải áo khoác, nằm lên, nghe hơi đá thấm vào lưng dễ chịu. Lộc Biếc nhìn lên lá cành lay động rất khẽ, cô ngạc nhiên không thấy bóng chim nào. Có lẽ chim đã bay vào rừng sâu. Lộc Biếc lại nhìn trời trong xanh, cao vời vợi, cô đợi một phiến mây bay qua … Bỗng dưng, cô nhớ nhà quá đỗi. Bài lục bát của Nam khiến cô nhớ mẹ, nhớ ba vô cùng, nhớ cả hai em nữa. Lộc Biếc rưng rưng nước mắt. Nhưng chả lẽ con gái đã lớn rồi, cứ ở nhà quanh quẩn với mẹ! Lộc Biếc tự hiểu, cô đã trưởng thành, cần phải bước vào đời, phải luyện rèn mình trong xã hội. Cô muốn chính cô phải trở thành con người hoạt động xã hội, chứ không phải chỉ quanh quẩn xó nhà, chỉ lo chuyện nâng khăn sửa túi. Phải đổi khác môi trường sống để phát hiện ra chính mình … Dòng lên tưởng lại dẫn dắt cô nhớ lại đêm Trung thu hôm nào ở sân trường Bảo Nghĩa. Sau khi buổi ca hát quanh đống lửa đã vãn, dưới ánh trăng lồng lộng, bao la, rười rượi trước hiên nhà, cô ngồi bên cạnh Suối Vui trong lúc mọi người đã ngủ. Đêm ấy, cô buồn đến muốn khóc, hiểu ra chính cô còn quá nhiều khiếm khuyết. Cô chưa bao giờ có điều kiện để học đàn mặc dầu thành phố quê hương là nơi thuận tiện nhất. Tuổi thơ Lộc Biếc không có nổi một cây đàn, không mời được một giáo viên âm nhạc làm gia sư, hoặc đủ tiền để đến một lớp nhạc. Lộc Biếc mê đàn bầu, đàn tranh và các nhạc cụ dân tộc biết bao! Nhưng điều khiến cô buồn nhất là hiểu trong tâm hồn không có bóng dáng trẻ thơ, hầu như cô không yêu thích trẻ thơ! Đó có phải là sự khiếm khuyết về nữ tính, báo hiệu sự bất hạnh sau này? Có phải chính đứa con của mình sau này mới dạy cho mình tình yêu trẻ nhỏ, để hoàn thiện nữ tính cho mình? Cô tự lập luận như thế, vẫn nghe lòng nặng trĩu nỗi buồn. Một người nữ không yêu quý trẻ thơ không thể gọi là người nữ chăng? Cô tự nhận ra niềm đam mê duy nhất của cô là sự mạnh về phẩm chất trí tuệ. Vả lại, cô được đào tạo theo hệ giảng dạy cho tuổi thanh niên trung học! … Cô không nghĩ đã sai lầm, nhưng vẫn biết chính cô đã có sự khiếm khuyết về nữ tính … Dòng liên tưởng miên man cùng tiếng suối trong hoang vắng lại đưa cô nhớ về Trường, người yêu từ năm thứ ba đến giữa năm thứ tư đại học của cô, kẻ đã khiến trái tim cô lạnh buốt suốt học kì cuối. Cô muốn quên Trường đi, quên hẳn đi, không còn dấu vết gì nơi tâm hồn nữa. Trí nhớ con người không phải là tấm bảng đen để cô có thể xóa sạch hình ảnh của Trường đã được chính cô vẽ bằng phấn trắng! Lộc Biếc đã dửng dưng, rồi xiêu lòng, điên đảo vì Trường, đau đớn đến chìm đắm vì Trường. Đó là một tình yêu đến từ từ, ngâm ngấm, dần dần, rồi say ngất … Có lẽ, không có gì khác hơn, chính lòng thủy chung đã khiến cô điên đảo và đau đớn, vì sau thời gian ngất say như rượu ngấm, là sự chán mứa đến nôn mửa trước sự rỗng tuếch, tầm thường của Trường, càng ngày càng nhận rõ. Trường – một gã con trai ích kỉ. Mọi nỗ lực học tập, kể cả yêu đương của Trường, đều xuất phát từ lòng ích kỉ ấy. Trường yêu Lộc Biếc, thật ra anh ta yêu chính anh ta, Lộc Biếc chỉ là phương tiện tình cảm! Hiểu ra bản chất của Trường, cô điên đảo và đau đớn khi phải đấu tranh với đức tính đúng theo đạo lí: thủy chung. Lộc Biếc không thể chủ động chia tay, nhưng tình yêu đối với Trường ở cô đã khô cạn. Cô buồn nôn trước chân dung bên trong của Trường, chân dung đích thực của anh ta. Còn gì đau đớn hơn khi Lộc Biếc nhận ra cô chỉ là một phương tiện, tuy thuần tình cảm! Rất may cô đã biết dừng lại trước những tính toán xác thịt của Trường! Song Trường không yêu ai ngoài Lộc Biếc, cũng chẳng hề phụ rẫy cô! Trường – gã con trai không có tình cảm yêu đương đích thực! Cô đã mong chờ sự phụ rẫy của Trường biết bao! Làm sao cô đành chủ động chia tay, tuy với kẻ xem cô chỉ là phương tiện, để chỉ hãnh diện với lũ bạn bè đua đòi yêu đương như thứ thời trang tuổi trẻ! Tuổi trẻ phải yêu đương mới là tuổi trẻ! Lộc Biếc chỉ là phương tiện thời thượng để trang sức cho tuổi trẻ Trường! Cô đã mong chờ sự phụ rẫy của Trường biết bao! Sự kéo lê ngày tháng trưng diện cho tuổi trẻ của Trường khiến cho Lộc Biếc bị giam trong xiềng xích của anh ta, khiến cô điên lên trong đau xót, khiến cô trở thành người không chút thủy chung, tàn nhẫn nói lời chia tay! Trường dồn cô đến bước đường cùng, đẩy cô xuống vực thẳm nhục nhã! … Lộc Biếc vẫn trừng trừng mở mắt trong giấc trưa bên suối. Tiếng suối như một khát vọng khôn nguôi, thao thiết mãi mãi. Cô cảm nhận độ căng thẳng nơi tiếng suối ngỡ như đều đều … Lộc Biếc thở dài. Cô tự nghĩ cô có duy lí quá không? Cô có chẻ sợi tóc làm mười không? Cô có phân tích trái tim đến nát bấy cả trái tim không? Nhưng lẽ nào Lộc Biếc đành mê muội, hay đành thả trôi đời như một cánh bèo trên dòng sông yêu đương, hoàn toàn phó mặc sự đẩy đưa … Lộc Biếc vẫn trừng trừng mở mắt trong giấc trưa bên suối. Có phải cô là nhà phê bình tình yêu đương, chứ không có mảy may tính chất của một người yêu? Phẩm chất tâm hồn của một con người được gọi là người yêu gồm những gì? Có mô thức nào không? Người ta không định nghĩa được tình yêu đương bởi họ là tín đồ của tôn giáo yêu đương, họ muốn huyền bí hóa, thiêng liêng hóa tình yêu của họ, hay đấy chỉ là sự làm dáng rất chân thành, rất trong sáng của trái tim? Người ta muốn “lặng lẽ chuồi theo dòng cảm xúc”, hay “tiếng cầm ca”, cả với tình yêu đương cũng vậy. Cô cũng muốn “thương” trái tim, quá thương nữa là đằng khác (21). Và bởi quá thương, cô phải phân tích để hiểu hết trái tim, tận mỗi tế bào sâu kín ở trái tim Lộc Biếc và trái tim Trường. Không hề nát bấy, trái tim vẫn khỏe. Rất khỏe trái tim trong lồng ngực mỗi người, khi thoát nỗi đau riêng … Mỗi con người là một cá thể không ai giống ai, thậm chí, những tình yêu đương trong một trái tim cũng khác nhau. Người yêu là người thơ chăng? Đừng yêu hay sống thơ bằng cái đầu chăng? Nhà thơ muốn đừng làm nghèo nàn cuộc đời bằng các định nghĩa khái quát khô cứng! … “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”! (21). Tình yêu đương có phải rất cảm giác, rất da thịt không? … Lộc Biếc cảm thấy bị sa lầy theo dòng liên tưởng đang thao thiết trôi bỗng bị hút vào vực xoáy, để rồi bị ném vào bùn sình mà bên trên xanh màu cỏ như thảo nguyên … Lộc Biếc nhớ An-đ-rê Gi-đ (André Gide) với sự phê phán ý tưởng Kinh thánh, thiên đàng là hạnh phúc, muốn đến phải bước qua “khung cửa hẹp” với sự ép xác … Không phải vậy và cũng không phải thế … Lộc Biếc bỗng dưng đỏ mặt một mình khi chợt hồi tưởng, cô đã từng giằng xé biết bao lần chính tâm hồn cô, trước những cử chỉ âu yếm rợn người, nồng cháy nhục cảm cô đã hình dung từ đôi môi, từ bàn tay Trường, khi Trường bộc lộ trong đôi mắt si dại bốc lửa, trong giọng nói ríu lại bởi hơi thở gấp lúc ngồi cạnh cô tại một quán vắng ban trưa. Rồi những quán vắng và những ban trưa như thế. Cô đã rụt rè, đã bị khung cảnh với sự gần kề cuốn vào ao ước, nhưng bản năng tự vệ của người nữ cùng với sự trinh khiết thơm ngát đúng theo đạo lí truyền thống đã giúp cô biết ngăn lại môi hôn cưỡng đoạt của Trường. Và bao giấc mơ khuya vắng rất vô thức, một mình với sự bừng tỉnh xấu hổ, trào nước mắt mừng rỡ như thoát chết, vì mơ chỉ là mơ của giấc ngủ … Dòng liên tưởng chả hiểu vì sao lại dẫn đưa cô trôi lạc trên chiếc thuyền độc mộc của niềm tự vấn vào lúc này. Cô đã dũng cảm đối diện với chính mình. Là con người, không ai không có dục vọng, có điều, may thay, kẻ bị dục vọng đánh bại bao giờ cũng ít, bởi không ai không biết cách chiến thắng nó. Lộc Biếc đã sợ những quán vắng, những cuộc đi chơi cho dù có vài bạn bè cùng đi … Quan hệ càng cởi mở càng dễ sa ngã! Hãy biết giữ mình, giữ đầu óc trong sạch! … Nói theo cách nói của nhà văn nào đó, cô đã giáp mặt hiện thực của cõi nỗi và chìm trong chính cô, một cách lạnh lùng như ngẫm lại sự thật con người … Lộc Biếc lặng lẽ nhìn tán lá xanh ngời lên dưới nắng trưa, vòm trời bao la trên cao xanh vời vợi kia. Dòng Đạ Nga vẫn thao thao ào ạt chảy xiết với độ căng muôn đời của nó. Sức sống rất thanh nữ nơi hoang vắng này khôn nguôi. Cô biết, trong giấc trưa đã hơi muộn so với thường ngày, có lẽ vì tiếng suối, vì những đôi chân mỏi, các bạn của cô có thể nhiều người không ngủ nữa nhưng vẫn nằm dưới các bóng cây, tựa lưng vào đá tảng vẩn vơ suy tưởng, lơ mơ với bao ý tưởng tản mạn.
Có ai đã ra suối khoát nước, vui vẻ nói cười. Lộc Biếc cũng nhổm dậy, bước ra bờ suối. Nước suối lạnh ngắt.
- Nước vận đọâng cừ khôi như kiện tướng thể thao, sao chẳng nóng tí nào vậy thầy Hoán?– Đóa Xuân trêu –.
- Chắc động năng vẫn biến thành nhiệt năng chứ.– Hoán thấy mình hơi thật thà, anh vỗ nước vào mặt, lau vội –. Cô Đóa Xuân không vận động sẽ thành tượng đá. Nếu luôn “tư duy chân tay, tư duy cơ bắp”, cô sẽ phát sáng.
- Một Đóa Xuân phát sáng, quá đẹp!– Nam nói –. Đóa Xuân ấy nghiêng bóng xuống Hồ Thu, quá trữ tình cổ điển!– Sợ hiểu nhầm, Nam cười –. Rất cổ điển một nét đẹp thiên nhiên! Tuyệt vời!
- Chẳng lẽ em không vận động, em lạnh lắm sao?– Hồ Thu nhìn Hoán và Nam –.
- Tôi phát hiện ra dạo này anh em nhà mình chơi thơ, chơi ngôn từ hình ảnh rất hay đấy! Hồ Thu là “tấm gương sáng” mà! Còn Sóng Thu là gì?– Nam ngẫm nghĩ –. Là sự vận động dịu mát, rất sinh động! “Tấm gương sáng” cũng có khi nổi sóng chứ!
- Phát sáng lấp lánh!– Lộc Biếc góp lời với tiếng cười –.
Đóa Xuân mỉm cười, cùng mọi người đến gần gốc cây có tán lá rộng nhất. Nắng đã tròn bóng lá, giờ bóng lá đã theo nắng, chênh chếch. Mười bốn nụ cười vây quanh cây đàn ghi ta với mấy tập nhạc chép tay, có bài chỉ chép ca từ, xen kẽ là những bài thơ.
- Như đã nói hồi sáng, không có chương trình. Tâm sự vụn hay hát hò ngâm đọc gì cũng được. Và thưa đồng chí Lụa, chiều nay khoảng bốn giờ là về nhà, phải không? – Hoán nói –.
Lụa gật đầu:
- Còn phải lo các thứ lặt vặt cuối tuần nữa chứ, đúng không?
Lộc Biếc tựa đầu vào vai Suối Vui, bỗng nhớ một bài thơ của Nguyễn Trãi, “Côn Sơn có suối đàn cầm, Mưa tuôn đá sạch ta nằm ta chơi”, ai đó đã dịch ra thành lục bát với hai câu khởi đầu rất trích tiên như vậy. Cô chẳng hiểu sao cô muốn chỉ nghe các bạn hát và ngâm thơ, còn cô chắc chắn sẽ chẳng hát bài nào cả, cũng chẳng đọc thơ nữa. Có lẽ cô mệt với dòng suy tưởng miên man lúc đang giấc trưa. Sợ mỏi vai Suối Vui, cô ngả hẳn đầu và tảng đá.
Lắng nghe một vài khúc hát quen thuộc, Lộc Biếc bỗng giật mình khi Cam Ly nói:
- Chị Lụa, em hát nhạc vàng của Văn Cao được không?
- Văn Cao? …– Lụa hỏi –. Tác giả quốc ca?
- Vâng. Văn Cao, với “Suối mơ” …
- Thì cứ hát.– Lụa cười –. Hỏi Lộc Biếc đây này.
Lộc Biếc hơi mắc cỡ trong tình huống Cam Ly hồn nhiên đặt ra. Khoai bỗng nhanh miệng đến bất ngờ:
- Nghe tham khảo chứ! Tôi muốn tham khảo tuốt!
Lộc Biếc cười:
- “Suối mơ” cũng như nhạc xanh của Liên Xô chứ có gì!
- Hát đi, về tôi viết kiểm điểm thay cho.– Hoán cười khùng khục –.
Mọi người đều cười ngặt nghẽo. Trang Thu phải dạo đàn khá lâu, đợi tiếng cười cuối cùng chấm dứt.
- … suối mơ
bên bờ thu vắng
dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng …
… suối hát theo đôi chim quyên …
… từng hẹn cùng nhau về xây nhà bên suối
nghe suối róc rách hoa lừng hương gió mát
đàn ai đùa trong khóm lá vàng tươi …

Tiếng hát Cam Ly vừa dứt, Huyện hỏi:
- Đàn ai đùa hay đàn nai đùa …?
- Đàn đùa bằng âm nhạc trong khóm lá mới tươi sáng chứ! Nai thì xoàng quá!– Suối Vui nói –.
- Còn chim quyên? Có phải đỗ quyên?– Đồi Hương hỏi –.
- Thôi, thôi! Nhưng có thể. Thoát li thực trạng mất nước! Thôi, thôi! Cứ hát để cảm thông một thế hệ dưới chế độ thực dân Pháp … – Nam vừa đùa vừa thật –. Giả nai thôi! Mất nước, tươi sáng nỗi gì!
Cam Ly dỗi:
- Em chả thèm hát nữa đâu!
- Thôi mà, cô em! Ráng lên! – Nam thân mật –.
Cam Ly cười, bảo cô sẽ hát nhạc xanh, bài “Đôi bờ”:
-… đêm dài qua
dưới cơn mưa, em mong chờ anh tới
cây cỏ hoa như nói nên lời
em hạnh phúc nhất đời!
lòng em riêng chỉ biết yêu anh
với tình yêu thiết tha
một dòng sông sóng nước bao la
đôi bờ đâu cách xa … (22)

Lời hai của “Đôi bờ” rất buồn, Cam Ly nghẹn ngào hát. Lộc Biếc rưng rưng muốn khóc, nghe cay cay ở sống mũi. Đôi mắt cô bỗng thẫn thờ, xa vắng.
Nam cũng bâng khâng nhớ Huế, nhớ dòng sông ngỡ chừng bình thản nhất nước, nhớ tấm thảm Ba Tư, nghìn lẻ một đêm cổ tích, với đôi thiên nga do chính Sông Hương, người yêu đã chia tay của anh, ngày ngày cắm cúi dệt ở tổ hợp thêu ren xuất khẩu.
Không khí lắng buồn. Tiếng suối Đạ Nga vẫn thao thao, ào ào chảy. Nam hát “Chiều Mát-x-cơ-va”, nhưng lại bồi hồi nhớ Huế:
- … chiều thanh vắng là đây
bên dòng suối rì rào
hàng cây lắng tiếng chuông đêm thâu
hỡi em thấu chăng tình anh, lòng bao trìu mến
Huế yêu thương trong chiều vắng êm đềm … (22)

Những tiếng vỗ tay vang lên. Khoai cảm động, bởi hơn ai hết, anh hiểu Nam. Anh đùa Nam, lại chỉ nói khẽ với Cam Ly:
- Thay Mát-x-cơ-va bằng Huế yêu thương là hay lắm. Chuông tình Sông Hương không biết có vang vào Đạ Nga không. Ở đây, tiếng chuông nhớ Huế cũng là tiếng quả tim ngân rung, vang từ đây tới Huế.
Nam đã hát cho Đạ Nga, và cả Sông Hương nữa, với niềm sâu lắng.
- Thầy Khoai hát tiếp bài thơ của thầy hồi sáng đi!– Trăng Thu vẫn cầm đàn, gảy nhẹ, khi tiếng ngân cuối của Nam dứt hẳn –.
Khoai hòa mình vào anh em bằng tiếng hát vịt cồ:
- … nắng reo mướt tóc thanh niên
em thơ xênh xang áo mới
nụ cười bên đọt dứa hiền
tiếng pháo hồng treo khắp lối

mời nhau dăm múi sầu riêng
thấy vườn Mỹ Tho bùi ngọt
nối lửa đôi ba điếu thuốc
nghe xao xuyến trời Điện Biên

lời chúc câu chào huyên thiên
rượu nồng bay trong mái lá
niềm vui tràn ra ngoài hiên
từng mảng nắng vàng rất lạ

thăm nhau, thăm nhau tháng giêng
áo khăn nhạt rồi bóng tối
má ơi, nắng ngoài Hà Nội
bay vào thơm lúa Thừa Thiên

thoảng hương đất, nhớ tổ tiên
đã cho cái nương, cái rẫy
thương, thương đàn con biết mấy
giữ gìn mùa xuân y nguyên (20)

Rồi Lá Xuân với “Dòng sông xanh Đa-nuýp”, cuối cùng là Trăng Thu với “Trở về mái nhà xưa” (23), nhạc trữ tình lãng mạn Phương Tây, đẹp những nét rất cổ điển.
Khi mọi người đứng dậy, gom lại đồ đạc lỉnh kỉnh để ra về, Hoán vẫn ôm đàn hát, trong tiếng cười của mọi người, như tiếc nuối:
- … tội nghiệp thằng bé
nhớ thương mãi quê nhà
giàn thiên lí đã xa mãi ngàn xa …

- Hoan hô dân ca Mỹ!– Khoai la lớn, và cũng bằng giọng vịt cồ, anh vừa bước theo bạn bè vừa hát trong tiếng đàn đã rối của Hoán –. Dân ca Việt Nam vẫn hay nhất.
Khoai nói rồi hát tiếp:
- … người ơi, người ở đừng về …
… người về em chẳng cho về
em níu vạt áo em đề câu thơ …

- Thầy Khoai đừng hát thay Đạ Nga nghe chưa!– Lá Xuân nói –.
- Kính chào tạm biệt cô gái thi sĩ Đạ Nga đã đề thơ vào áo!– Khoai bỗng linh hoạt như chưa bao giờ vui đến thế, anh nói khi bước qua hai thân cây được bắc ngang suối –.
Lộc Biếc đi bên cạnh Đồi Hương, cảm thấy đôi chân mỏi rã rời lúc bước lên dốc. Tiếng suối vẫn thao thiết, ào ạt chảy tự muôn đời không ngừng nghỉ dưới kia. Cô đứng đợi Cam Ly. Cam Ly mỉm cười. Lộc Biếc nói với cô giáo trẻ da bồ quân mười tám tuổi ấy:
- Không những anh Hoán, mình cũng viết kiểm điểm thay Cam Ly nếu Lụa khiển trách, vì đã hát nhạc vàng thời mất nước, thoát li hiện thực của Văn Cao. – Cô cười thành tiếng, hơi gượng nhưng chân thành –.
- Đùa vậy chứ phó bí thư Chi đoàn chúng ta cũng biết “tham khảo” lắm chứ bộ.– Cam Ly cười ngặt nghẽo với Hồ Thu –.
Hồ Thu dọa:
- Khôn hồn thì tự phê triệt để trước khi bị “đấu”!
- Nhất trí!– Cam Ly vẫn cười –.
Khoai và Hoán đi sau cùng nhưng đã kịp bước cùng bốn cô gái đang kháo chuyện. Hồ Thu quay sang Khoai:
- Không ngờ thầy Khoai làm thơ hay vậy!
Khoai mỉm cười, khiêm tốn, tự giấu bớt độ sâu và tinh tế của tâm hồn mình đi:
- Xin được “trừ bì” bớt. Cái chất bên trong chẳng được mấy tí! Cô Hồ Thu biết không, bài ấy còn một đoạn nữa, bị ông bạn làm nhạc cắt mất.
- Thầy Khoai đọc thêm đi. Chắc đoạn ấy “có vấn đề”?
Khoai lắc đầu, ngần ngừ rồi đọc:
- … kiễng chân hái nhánh tre nghiêng (24)
lộc non nao nao lòng dạ
mơ ước về trong tay má
xin đời ngát mãi tháng giêng.

– Và anh nói tiếp –. Có điều tục lệ hái lộc đầu năm người ta vận động bỏ đi rồi, bởi mùa xuân là Tết Trồng cây, chứ không nên làm đau cây! – Khoai nói với giọng sâu lắng –.
Lộc Biếc mở to mắt, thoáng sững người vì lí do bài thơ bị cắt đoạn cuối. Cô vẫn bước, buột miệng:
- Nhân đạo lắm! Nhưng biết làm thế nào được …
- Vừa trồng, vừa hái.– Đồi Hương đề nghị –.
Cả nhóm sáu người không ai nói gì nữa. Họ im lặng bước bên nhau trong nắng chiều. Tiếng suối Đạ Nga vẫn còn vang vọng mờ nhòa rồi mất hẳn.
Như không thể dứt bỏ được cảm giác ngường ngượng bởi tình huống Cam Ly hồn nhiên đặt ra từ lúc hát nhạc vàng hồi nãy, Lộc Biếc lại nói sau khi mọi người đã im lặng khá lâu:
- Thật ra mọi điều đều rất dễ bị ngộ nhận. Mỗi người không hiểu hết mình, lại thường hiểu lầm về người khác, tác phẩm của người khác. Không phải bất khả tri, bí hiểm hóa. Nhận thức là một quá trình. Cần nhận thức lại sự nhận thức trước đó … Như bài thơ của anh Đỗ Khoai …– Lộc Biếc như nói một mình –. Tự do sáng tác, phải thật, phải tốt, phải đẹp …
Cả sáu người vẫn bước giữa nắng chiều. Lộc Biếc có cảm giác hẫng đi trong sự im lặng. Cam Ly thấy một cách mơ hồ, nắng xiên khoai đang chiếu vào người cô những tia nóng không trừu tượng hay mông lung chút nào. Khoai đang xúc động trước sự diễn đạt ý tưởng rất thuần lí của Lộc Biếc, nhưng không thể thốt thành lời. Khoai lén nhìn Lộc Biếc. Giọt mồ hôi dưới tóc mai của cô lóng lánh, bất chợt lóe sáng, khiến anh nghe rúng động tận đáy trái tim mình.
Khoai vẫn nghĩ theo bước chân. Anh đã bao lần cảm xúc mãnh liệt trước các trang văn lí luận, loại văn thuần lí, ngỡ khô khốc với các thuật ngữ ngỡ lạnh lùng, tẻ nhạt, nữa là trước ngôn từ trí tuệ của cô giáo ngữ văn Lộc Biếc. Giọt mồ hôi mãi lóe sáng, dưới những sợi tóc mai của người anh yêu, trong tứ thơ chiều nay.

16

Lộc Biếc ngồi đối diện với ông Binh. Trên bàn tiếp khách hình chữ nhật, giữa họ là cây đèn dầu cỡ trung, được vặn bấc sáng, hai cuốn sách và hai cuốn vở. Lộc Biếc giảng bài vừa đủ để ông Binh nghe. Ông lặng lẽ nhìn xuống mặt bàn, thỉnh thoảng lại ghi chép vào vở. Trong những quãng im lặng, Lộc Biếc nghe tiếng đọc bài ê a của mấy đứa cháu nội ông Binh dưới nhà vọng lên.
- Thưa bác, đây là bài đầu tiên của chương trình lớp mười. Từ nãy đến giờ, cháu nói chuyện như thế có nhanh quá không?– Lộc Biếc cố tránh hai chữ “giảng bài” –.
- Không, như vậy là vừa. Cô giáo cứ tiếp tục cho.
Lộc Biếc lại trình bày tiếp. Trước khi vào bài học, cô đã đề nghị ông Binh chia vở ra làm hai, không kể lề vốn là một đường kẻ đỏ mờ. Một bên, cô đọc để ông ghi dàn ý của bài giảng. Không phải đọc hết, ghi hết một lần, cô vừa giảng vừa nhắc ông ghi các tiêu đề, các ý chính. Một bên khác, cô theo dõi cách ghi thêm những gì ông lưu ý trong bài giảng của cô. Lộc Biếc muốn kiểm tra một cách tế nhị sự tiếp thu của ông Binh, xem ông nhạy cảm với điều gì nhất, để từ đó cô rút kinh nghiệm, dạy sát hợp với trình độ và tuổi tác của ông hơn. Cô cảm thấy mừng vì sẽ không vất vả lắm cho cả hai người. Kiểu chữ của thế hệ ông Binh khá rõ nét, Lộc Biếc đọc ngược vẫn đễ dàng.
- Thưa bác, như cháu đã trình bày, chữ quốc ngữ với hai mươi bốn chữ cái La Tinh có thuận lợi hơn chữ Nôm của ông cha mình không?
Ông Binh gật đầu:
- Rất thuận lợi. Cố gắng một tuần là đọc thông viết thạo
- So với các nước láng giềng, dân tộc mình hơi … lạ đấy.– Lộc Biếc mỉm cười –. Nhật, Nam – Bắc Triều Tiên, Thái Lan, Căm-pu-chia … vẫn giữ “chữ Nôm” của dân tộc họ. Lào cũng thế … Bác nghĩ sao ạ?
Trầm ngâm một lát, ông Binh hơi ấp úng:
- Cũng lạ thật. Chẳng lẽ …
- Trong quá trình bị thực dân, một số nước không sử dụng cả tiếng nói lẫn văn tự của nước họ trong hành chính, ngay trong giao dịch hàng ngày nữa, như Ấn Độ, Phi-líp-pin … Họ dùng tiếng Anh!
Ông Binh buông bút, bóp tay vào trán:
- Ấn Độ là nước cực kì văn minh kia mà!
- Vâng. Văn minh Ấn Độ lan tỏa khá rộng, cũng như La Mã, Ai Cập, Hy Lạp, Do Thái ở châu Âu, châu Phi và Trung cận Đông. Cũng như Trung Hoa, Ấn Độ là cái nôi văm minh của châu Á.
- Nhưng sao lạ thế?– Ông Binh nhíu mày, trong ánh mắt ông có một tia lửa lóe lên –. Mất gốc à?
- Cháu không dám lạm bàn. Chữ Pháp, chữ Anh, chữ Nga, chữ Đức, chữ Tây Ban Nha … cũng là các dạng chữ nôm của các nước châu Âu ấy. Họ vay mượn bộ chữ cái La Tinh, Ả Rập để kí âm. Nhật, Triều Tiên, Việt Nam mượn các kí hiệu văn tự của Trung Hoa để ghi tiếng nói của dân tộc. Cũng tương tự thế, chữ Phạn đã được Thái Lan, Căm-pu-chia vay mượn. Tạm nói giản đơn như vậy.– Cô tiếp –. Tiếng nói và chữ viết! Tiếng nói là hồn nước, là di sản của cả dân tộc, hàng nghìn năm …
- “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn” … “Tiếng ta còn, nước ta còn” … Tôi nhớ không chính xác, hồi xưa, Phạm Quỳnh có viết đại để như vậy.– Ông Binh buột miệng, ngắt lời Lộc Biếc –.
- Đó là một vấn đề. Nước mất dài lâu, dân tộc bị đồng hóa, bị cai trị suốt nghìn năm, tiếng nói dân tộc vẫn tồn tại. Không những tiếng nói vẫn tồn tại mà dân tộc ta còn biết tiếp thu và phát triển vốn từ vựng một cách rất phong phú, cực kì tinh tế. Nước ta trước Cách mạng Tháng tám, vẫn dùng chữ Hán nhưng ngôn ngữ hàng ngày trong giao dịch vẫn sử dụng tiếng Việt; hơn nữa, còn đọc chữ Hán theo cách Việt, đồng thời sáng tạo và sử dụng chữ Nôm. Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm … được viết bằng chữ Nôm. Sau này, Pháp lại buộc dùng tiếng Pháp và chữ Pháp … Chữ Nôm, ấy là thành quả của trí tuệ dân tộc, vẫn bị bị một bộ phận người vong bản trong nước xem “nôm na là cha mách qué”!?! Đó là vấn đề chữ Nôm.– Lộc Biếc ngừng lại, nhìn ông binh ghi –. Còn câu nói của Phạm Quỳnh, cháu nghĩ thế này. Truyện Kiều, tuy là tinh hoa của tiếng ta và chữ Nôm, vẫn chưa phải là “từ điển” (kho từ vựng) chữ Nôm đầy đủ. Chữ còn, tiếng còn nhưng nước mất vẫn cứ mất. Nếu cứ mất như thế, rất nguy hiểm, có nguy cơ mất cả chữ lẫn tiếng, như Do Thái chẳng hạn … Nhắc đến Do Thái cho dễ thấy, chứ Do Thái còn khá, còn phục hồi lại được. Nhiều dân tộc có quốc gia hẳn hoi vẫn mất … Phải cứu nước, để còn tất cả, trong đó có tiếng nói dân tộc, chữ viết dân tộc. Câu nói của Phạm Quỳnh, có người phê phán là tay sai, mị dân, hay tiêu cực (chấp nhận sống dưới gót giày thực dân “bảo hộ”) … Thưa bác, thế hệ bác đã cứu được nước, đánh đổ được chữ Hán lẫn chữ Pháp khỏi vị trí thống trị của chúng. Thế hệ chúng cháu xin nhớ ơn.
Cả ông Binh lẫn Lộc Biếc đều sững người. Ông Binh chớp chớp mắt. Lộc Biếc cũng không ngờ đã thốt ra một lời nhớ ơn, biết ơn đậm đà đến vậy, như một tình cảm hồn nhiên từ vô thức.
- Trở lại vấn đề chữ quốc ngữ với mẫu tự La Tinh: cái “lạ” của dân tộc mình, thưa bác, có lạ không?
- Không. Cô giáo đã khảo sát qua nhiều dân tộc, Anh, Pháp, Mỹ … với chữ của họ. Riêng so sánh với các nước láng giềng, quả hơi “lạ”. Nhưng vậy thì dễ học, dễ đọc, mình vẫn giữ được hồn nước.
- Bác có nghĩ rằng, với chữ quốc ngữ với mẫu tự La Tinh, mình đã li khai, thoát khỏi sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa để độc lập hơn không?
- Tôi chưa nghĩ …– Ông Binh ngập ngừng –.
- Có thể đó là một biểu hiện của sức mạnh Việt Nam, một phản ứng văn hóa, theo tinh thần Nguyễn Trãi, “Nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu; núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc, Nam] cũng khác” .– Lộc Biếc chú thích với giọng nhỏ hơn –. Ở đây, Bắc là Phương Bắc, tức Trung Hoa; Nam là Phương Nam, tức Việt Nam. – Cô nói tiếp –. Đó chỉ là phản ứng văn hóa, chứ không phải theo Tây. Phải xét phản ứng ấy trong điều kiện cụ thể – lịch sử. Chưa dân tộc nào chống Tây kịch liệt, lâu dài như Việt Nam. Mượn Tây chống Tàu, mượn Tây chống Tây, để Việt rất Việt, trong thế đứng của mình, ở châu Á và trên thế giới.
Ông Binh gật gù:
- Thế hệ chúng tôi chỉ biết hành động theo lòng yêu nước. Chính ý thức độc lập, tự do đã dẫn dắt như vậy. Tôi cũng không hiểu hết …– Ông nói chân thành –.
- Không ai hiểu hết tiềm lực của mình.– Lộc Biếc kết luận –. Chúng cháu cảm ơn bốn nghìn năm văn hiến của dân tộc Việt Nam ta. Cháu cảm ơn bác.
Ông Binh ngơ ngác, sững nhìn cô giáo trẻ.
Cô nhìn vào đồng hồ đeo tay của ông Binh, thấy đã hơn chín giờ tối. Ngoài trời tối đen và chắc khá lạnh. Cô cũng cảm thấy hơi mệt, vội nói:
- Thưa bác, tạm ngừng ở đây. Xin bác lưu ý lại nguồn gốc của tiếng nói các nhân tộc nói chung, trong đó có nhân tộc Kinh chúng ta, theo quan điểm duy tâm và duy vật. Xin bác lưu ý thêm vấn đề chúng ta mới mở rộng, đó là chữ quốc ngữ. Lần sau, bác cháu mình sẽ nhắc lại chữ viết thời Hùng Vương, cả nguồn gốc chữ quốc ngữ theo chữ cái La Tinh, để bổ sung vào vấn đề mới bàn. Xin phép bác cho cháu về lại nhà tập thể.
Ông Binh cảm ơn cô giáo, tiễn cô ra tận ngõ. Lộc Biếc thấy ở khu trung tâm vẫn còn ánh đèn le lói qua các kẽ ván. Gió khuya thổi lạnh buốt. Nền trời đầy sao sáng, nhấp nhánh, xanh biếc. Cô nảy ra ý định sẽ nhờ Hoán, trong chủ nhật tới, sẽ mua giúp cô một cây đèn pin ở Đa Công. Cô mỉm cười hình dung một người cầm vầng trăng thu nhỏ đi trong đêm. Bỗng dưng cô nhận ra hình như cô đang có cảm giác cồn cào của người đói bụng, ngực khao khao rất lạ, có lẽ là cảm giác mệt của người thiếu dinh dưỡng, lao tâm. Lộc Biếc vẫn bước trong đêm một mình. Cô sực nhớ người anh với cô em gái trong một bài thơ của Giang Nam, “Nghe tin em vào đại học” . Mới cách đây một tiếng rưỡi đồng hồ, cô đã muốn trào nước mắt trước mái tóc bạc cúi xuống ghi chép bên ngọn đèn dầu của ông Binh, người đã trải qua hai mùa kháng chiến. Không, không chính xác đâu, những trên ba mươi năm dằng dặc! Hai mùa, đó là chữ của tâm lí, của tu từ. Tóc đã bạc, đã thưa, đã vào thu. Còn tháng giêng trong mùa thu không? Cô khẽ buột miệng: bác Binh ơi … Khát vọng học hành thời tuổi trẻ sống lại trong cụ già đã sáu mươi ngoài có làm xanh lại mái tóc hay chóng úa bạc hơn? Lộc Biếc lặng lẽ bước trong đêm một mình. Gió khuya thổi lạnh buốt. Đâu đó có tiếng chó sủa. Cô vẫn bước. Lộc Biếc chợt cảm thấy xấu hổ khi nhận ra mỗi lần nhớ đến miếng ăn, cô lại nhớ mẹ! Lúc này, cô cũng nhớ thành phố Hồ Chí Minh, nhưng mắc cỡ quá, vì nỗi nhớ chỉ hướng về tô hủ tiếu bốc khói về đêm ở đầu hẻm gần nhà! Lộc Biếc bước về nhà tập thể với những ý tưởng không đầu không cuối.
Chợt Lộc Biếc đi nép vào hàng hiên của dãy nhà liền căn, vì nhác thấy hai bóng người đi tới.
- Lộc Biếc đó phải không?– Một giọng Đà Nẵng –.
- Anh Huyện! Lộc Biếc đây!– Cô reo lên –.
- Hai anh em đi đón đồng chí cô giáo đây. Dạy bổ túc có vui không?– Huyện thân mật –.
Lộc Biếc cười mừng rỡ:
- Em dạy đại học bằng chương trình lớp mười! Thật đó, không phải “đại học chữ to” đâu! – Cô cười khúc khích với niềm tự hào rất đỗi sinh viên –. Ý tưởng lại rất riêng!
Khoai ứa nước mắt trong bóng tối. Hai chữ “Lộc Biếc” ngọt và cay trong miệng anh. Cô gái anh đau đớn yêu thương không buồn để ý đến anh, kẻ đang đứng bên Huyện sao!
Đang đi về, cô bỗng vỗ tay vào sách vở:
- Ồ, em quên vấn đề quốc tế ngữ mất!

17

Chào cô giáo Xinh với bé Ngoan ở đầu ngõ nhà, sáu anh em thư thả bước về hướng xóm anh Ruộng, ôngBinh, anh Trà và doanh trại bộ đội. Đang đi ngược nắng nhưng chiều đã dịu nhờ không khí lạnh ở rừng xa lan về, bỗng cả sáu người đều quay lại khi nghe tiếng chân chạy ở phía sau. Một học sinh lớp tám vòng tay, khẽ cúi đầu, thưa trong tiếng thở mạnh, hơi dồn dập:
- Thưa thầy cô, nhà bà Tặng nhờ em đến mời thầy cô ghé chơi, ngay bây giờ ạ.
Hoán buột miệng “à” một tiếng:
- Nhớ rồi! Cảm ơn em nhé. Ngay bây giờ?
- Dạ. Em xin phép thầy cô …– Chưa dứt câu nói, em học sinh đi nhanh một đoạn để giữ lễ rồi co giò chạy về khu trung tâm –.
- Tốt quá! Anh em mình về nhà bà Tặng xơi một chầu đi! Thỉnh thoảng ở đây có “tiết mục” này.
- Là sao?– Lộc Biếc hỏi –.
- Là liên hoan có chất đạm!– Hoán nói với tiếng cười –. Cứ về đó rồi biết! Cam Ly cũng đã dự đôi phen rồi mà!
Cam Ly cười:
- Có, hồi năm ngoái.– Cô giải thích –. Ở đây thỉnh thoảng có một “quán ăn một buổi” như vậy, và khách được mời một cách hết sức tình cảm với giá cả cũng tùy đối tượng.– Cô lại cười rất hồn nhiên –.
Khoai nói:
- Mình hiểu rồi. “Cải thiện” theo kiểu “trốn thu mua” đó chứ gì! Hình như có một bài báo nào đó đã viết về chuyện này.
- “Quán ăn một buổi”! Hay đấy. Phải đi cho biết.– Nam thích thú –.
Cả sáu người đều đã quay về một đoạn đường như thể đã đồng ý với nhau tự hồi nãy.
- Có bị phê bình không? Học sinh biết được làm sao còn dám lên lớp! – Lộc Biếc phân vân –.
- Không sao đâu! Đây là sự linh hoạt của Xã với lại … cả Phòng Thương nghiệp nữa, cho dân “cải thiện”. Xóm nào cũng có như thế. Cũng đóng thuế địa phương hẳn hoi.– Hoán nói –.
Thấy cũng ngộ, sáu anh em đều cười.
- Thuế trong nguyên tắc, không “chui” đâu.– Hoán cố nói rõ –. Xin yên tâm .
Trước cửa nhà bà Tặng, ánh đèn măng sông hắt ra đường. Có tiếng cười nói khá nhộn bên trong. Lộc Biếc hơi ngỡ ngàng khi bước vào. Đúng là một quán ăn. Những nong tằm, giá gỗ được gửi đi đâu mất, thay vào đó là bốn bộ bàn ghế ở đâu mang về. Thức ăn được dọn lên bàn, giữa những khuôn mặt ửng hơi men.
- Ồ, chào thầy cô.– Tiếng những phụ huynh –.
- Thầy cô vui lòng lui sau nhà nhé.– Bà Tặng vui vẻ và ân cần nói –. Cháu ở nhà đã dọn sẵn một mâm rồi. Ở sau nhà yên tĩnh hơn, ngay phía sau vách gỗ này, chỗ phòng khách.
- Ủa, anh Ruộng! Cả anh Trà đây này.– Huyện chào –.
Trong số khách đang ngồi ăn, có anh Ruộng đang đưa tay chào lại. Bắt chặt tay Huyện, anh Trà lại bỏ chỗ ngồi đến bắt tay Khoai và Nam. Anh lại gật đầu chào một lần nữa trước hai cô giáo.
Cam Ly kéo tay Lộc Biếc lui nhà sau, sau khi chào đáp.
Anh Ruộng nói với Huyện:
- Đi đâu giờ mới tới? Lui sau đi, lát nữa mình cũng lui ngồi với các bạn. Làm trước một ngụm khai vị không?– Anh Ruộng chìa li rượu nhỏ –.
Huyện lắc tay:
- Lát nữa nhé.– Anh mỉm cười chào những người cùng bàn với anh Ruộng –.
Trong lúc đó, Khoai nói với anh Trà:
- Định đến quán anh chơi mấy lần, nhưng chưa đi được. Không ngờ có duyên với nhau! Lúc ngồi trên xe từ Đà Lạt về Công, đâu biết anh là dân ở đây!
- Tiếc là có các cô giáo,– Anh Trà ghé tai nói nhỏ –, không thì chúng mình cụng li một bữa tại đây cho vui. Hôm nào ở nhà nhé!
- Không sao đâu!– Nam nói –. Anh Trà xuống nhà sau với nhóm này, đồng ý không?
- Ừ, lui sau luôn.– Anh Ruộng vỗ vai anh Trà –. Đều là giáo với lại viên cả mà! – Từ ghép giáo viên với nguyên nghĩa của nó được anh Ruộng tách ra theo cách nói nhấn nhá khá thông thường để thêm thân mật –.
Những nụ cười thân tình vang lên thành tiếng. Nam chợt thấy, “quán ăn một buổi” này giống như các đám giỗ, đám cưới anh đã nhiều lần dự ngoài quê. Cũng độc đáo thật, nhưng thiếu đi ý nghĩa cần thiết … Có điều, giỗ, cưới là khác, bồi dưỡng chất đạm, chất béo ở vùng đất khai hoang lập ấp xa chợ đò, thị trấn lại là khác! – Nam mỉm cười nghĩ –.
Trên bàn dành riêng cho nhóm giáo viên, có mấy dĩa thịt phay, mấy dĩa tiết canh, mấy bát cháo khá lớn, một dĩa chanh ớt và chén đũa. Cũng khá lâu rồi, Lộc Biếc mới thấy lại một bữa ăn ngon lành như vậy. Không thể không thấy cồn cào ở dạ dày khi mùi thức ăn hấp dẫn tỏa ra, Lộc Biếc vừa giận vừa buồn cười cho mình. Thật ra có gì thịnh soạn lắm đâu! Chỉ mới mấy tháng gần đây cô mới có cảm giác thiếu hụt quá tầm thường này. Bất giác cô thở dài. Cô lại nghĩ cái thở dài của mình đã hơi cao đạo. Cứ dấn thân, trải nghiệm và cứ hồn nhiên! …
Trong lúc đó, Khoai giới thiệu những người chưa biết nhau. Lộc Biếc đỏ mặt khi nghe tên mình, và cô hiểu vì sao cô lại đỏ mặt.
Lộc Biếc nể nang nhắm một ngụm rượu cay giữa những tiếng cười thân tình. Khoai lén nhìn cái nhăn mặt của cô, anh cúi mặt, bồi hồi. Huyện vui như chim sáo, tuy ngồi yên một chỗ.
- Khai vị thôi nhé.– Lộc Biếc nói khẽ với Cam Ly –.
Cam Ly cười, gật đầu.
- Xin mời đi. Hay quá là hay. Đúng là “một sàng khôn” chứ chả chơi. – Nam nói –.
- Chẳng lẽ “khôn” là … thịt?– Lộc Biếc trêu, lại một lần nữa đỏ mặt sực nhớ chữ “nhục” hai nghĩa của Nguyễn Khuyến –.
- Đôi khi đồng nghĩa.– Nam đáp, anh đâu biết Lộc Biếc nghĩ gì –.
- Anh Trà này là một cây rượu đó nghe. Không cụng li nổi đâu.– Anh Ruộng nói –.
Lộc Biếc thấy anh Ruộng không có vẻ gì say cả, mặc dầu đã ăn uống ở bàn ngoài kia. Có lẽ anh ấy cũng nhát rượu. Cả anh Trà lẫn anh Ruộng chỉ ngồi ăn lai rai, còn Nam, Huyện, Khoai rất mực “chân tình”. Khoai vừa ngước nhìn lên bàn thờ. Trên đầu tủ, ba cây nhang đã cháy gần hết. Tàn nhang rơi bên dĩa thức ăn. Vẫn lặng lẽ, Khoai nhìn kĩ bàn thờ, thấy có cả áo binh, giấy vàng bạc. Cũng như Nam, Khoai cứ ngỡ đây là buổi giỗ. Anh Ruộng hiểu ý:
- Không phải kị giỗ gì đâu. Kị giỗ thiêng liêng và tình nghĩa hơn nhiều! Đây là cúng ngoại lệ. Lâu lâu làm thịt lợn, khu xóm “liên hoan”, cũng mời ông bà “liên hoan” cho vui.
- Thêm phần ấm áp! Còn đó, mặc dầu các vị đã mất.– Khoai hớp thêm một ngụm rượu nhỏ. Li rượu con con của anh nãy giờ vẫn chưa cạn –. Ở đây, mọi thứ hàng hóa đều khan hiếm, vẫn có cả hàng mã.
Anh Ruộng gật đầu:
- Ờ, mấy ông Ủy ban có vận động bỏ đi, nhưng tôi thấy vẫn hay chứ sao. Bà xã nhà tôi không cho cúng, tôi thấy bả cực đoan quá.
Nam cười, hơi ngạc nhiên:
- Chẳng lẽ anh Ruộng tin có linh hồn và cõi âm à?
Anh Ruộng gật đầu một lần nữa:
- Có chứ.
- Sao anh đi làm cách mạng?– Cam Ly cười –.
- Thôi, đừng nói chuyện đó nữa. Tôi làm cách mạng là chống thực dân, đế quốc thôi.– Anh Ruộng thấy câu chuyện hơi sa đà không phải chỗ, anh ngập ngừng muốn nói thêm gì đó, rồi nghĩ sao, lại thôi –.
- Mê tín! Còn bày đặt vàng bạc, áo binh!– Cam Ly hồn nhiên nói với tiếng cười khẽ. Cười khẽ, nhưng cô nói khá lớn giọng –.
Nam hốt hoảng, sợ bà Tặng phật lòng, vì bà đang lúi húi thái thịt gần đó, có thể nghe được. Nam nâng li, mời người mới quen để át đi câu nói của Cam Ly:
- Mời anh Trà cụng li một hớp!
- Sao lại một hớp?– Với giọng Bắc khá nặng, anh Trà ngạc nhiên –.
- Thì cho vui thôi. Ở đây hóa ra ai cũng nhát rượu.
Vừa nói, Nam vừa nhìn bóng bà Tặng, thấp thoáng sau các kẽ hở vách gỗ vốn ngăn căn đặt bàn thờ với bàn thái thịt. Có lẽ bàn thái thịt ấy mới mang lên từ nhà bếp xa tít đằng sau, để dễ phục vụ khách.
- Thì một hớp!– Anh Trà nâng li –.
Huyện, Hoán, Khoai cũng chạm li, cười vui vẻ.
- “Ba chai không sai” mà, lo gì.– Anh Trà uống cạn cả li và tự rót thêm –. Nhưng thật ra tôi cũng đủ rồi. Hôm nay rất vui là được biết thêm cô giáo Lộc Biếc. Học sinh ở đây nhắc cô hoài đấy!
- Cảm ơn anh, mấy anh ở nhà tập thể có mặt ở đây cũng nhắc đến anh Trà luôn.– Lộc Biếc đáp lễ –.
- Ồ, nhắc tôi?– Anh Trà nhìn lướt qua mấy gương mặt đang cười với anh –. Không hiểu … có gì …
- Định hôm nào mượn anh cuốn sách của Rơ-mác. – Nam nói –. “Một thời để yêu …”, hình như anh cũng có?
- À! Tôi cũng tình cờ nhặt được của mấy bà ve chai, mang về gói kẹo bánh bán cho lũ nhóc ấy mà.
Lộc Biếc chưng hửng, nhưng ngay sau đó, cô đoán chắc anh Trà này giữ kẽ. Cô nghe Nam nói:
- Quá tiếc. Ngoài Bắc, trước bảy lăm cũng đã dịch Rơ-mác, “Mặt trận miền tây không có gì lạ”.
Anh Trà khẽ giật mình. Thoáng nhìn anh Ruộng, anh nói:
- Gói quà vặt cho lũ nhóc còn có tiền, chứ để đọc, chỉ tổ mất tiền, ích gì!
Khoai mỉm cười. Mới hôm nào, trên xe về huyện Công, anh cựu đào binh này còn xót xa, da diết thế kia, giờ lại có giọng điệu quá tục dụng, muốn tầm thường hóa sự đời. Khoai hiểu cả anh Ruộng lẫn anh Trà, thấy họ đành phải xử sự với nhau trong cuộc sống hàng ngày như thế. Ngay cả Nam và chính cả Khoai, đối với ai đó, đều cũng phải thế thôi. Đâu dễ gì trải lòng ra với nhau được, nếu chưa thật hiểu nhau.
Nãy giờ, Nam không biết nói sao để lấy lại lòng bà Tặng. Nam hiểu, để vận động cách mạng, có người còn “cà răng, căng tai” (25), nữa là vàng mã … Không vì mục đích gì khác, ngoài sự tế nhị tối thiểu (anh cũng thấy điều đó ở Cam Ly qua vẻ ân hận, bối rối của cô), nên Nam không thể bỏ qua được cái cau mặt với nhát dao bập vào thớt ngỡ vô cớ của bà Tặng. Bà Tặng hẳn đang bực mình. Nam nói bừa, cố ý lớn tiếng, về điều mà mạch chuyện đã lướt qua từ lâu, như thể người từ cung trăng rơi xuống:
- Hoan hô tín ngưỡng dân gian!
- Trời đất, coi bộ say rồi hả ông tướng?– Lộc Biếc suýt cười thành tiếng nhưng cô lại kịp tự bưng miệng –.
- Say sơ sơ, đủ để giải mã tín ngưỡng của ông bà tổ tiên. Tôi không khẳng định có niết bàn, địa phủ hay không, tuy nhiên tôi thấy, như thể giáo cụ trực quan (mấy tuần nay giáo viên mình đang hì hục tìm kiếm, mày mò làm để tăng cường hiệu quả giáo dục, giáo dưỡng), ấy là vàng bạc, áo binh hàng mã này. Ngay bữa cỗ trên bàn thờ cũng thế. Tất cả là cho người đang sống, chứ không phải là cho người đã mất. Tất cả các thứ ấy là để dạy người sống chữ hiếu một cách hết sức cụ thể … – Nam nói một thôi dài, cố ý lớn giọng để chuộc lỗi với bà Tặng –.
Nam phấn khởi thật lòng khi thấy bà cười hả dạ.
- Tôi định nghĩa theo “nhà nghiên cứu” Nguyễn Trần Nam.– Lộc Biếc cười thành tiếng thật thoải mái –. Hiếu là chăm sóc miếng ăn, giấc ngủ … Chăm lo tấm áo, manh quần, tiền bạc, xe cộ các thứ cho ông bà, cha mẹ, các chiến sĩ vô danh hi sinh vì Tổ quốc là hiếu, là nghĩa. Rất cụ thể. Không trừu tượng. Đó là mục đích, yêu cầu qua giáo cụ trực quan này. Tất cả trên bàn thờ đều là giáo cụ trực quan. Phải vậy không? Giản đơn mà thấm thía thật!
- Nam “đao to búa lớn” một cách hài hước:
- Cô phỗng tay trên công trình “châm cứu” của tôi mất rồi! Tôi xin giữ bản quyền rồi mà!
Dưới ánh đèn măng sông, tám nụ cười nãy giờ vẫn mở ra chưa tắt, cứ rộ lên rồi lại giữ mỉm.
- Nếu vậy thì hay quá. Chắc phải sắm một ít để về thuyết phục bà xã giáo dục cho lũ trẻ với cái mục đích, yêu cầu này!– Anh Ruộng nói –.
- Cái bằng “Dũng sĩ” của anh nữa. Cái đó cũng cụ thể, mặc dù thuộc phạm trù tinh thần.– Hoán nói –.
- Thôi. Cảm ơn. Nói chuyện gì khác đi mà.– Anh Ruộng cười –.
Bà Tặng rất hởi lòng hởi dạ, bưng tới thêm một dĩa thịt:
- Dĩa này xin kính biếu các thầy cô.
Anh Trà phá ra cười, mọi người cười ngặt nghẽo khi bà Tặng nói tiếp:
- Tôi cũng rất cụ thể!– Bà cũng cười rung cả vai –. Đâu phải cái gì cũng cách với lại mạng đâu!
Nam đẩy dĩa thịt lại góc bàn, phía bà Tặng:
- Nói vậy chứ … Xin cảm ơn cô. Chúng cháu vừa đủ rồi.
- Xin cứ mời. Các thầy cô cứ dùng thêm cho vui, “cây nhà lá vườn” cả mà. Thầy Nam với các thầy cô cứ thật tình cho.– Bà Tặng nói một cách chân thành, và lại bước ra bàn thái thịt sau vách gỗ –.
- Thật ra có ăn uống bao nhiêu đâu.– Huyện nói khi thấy thức ăn còn thừa nhiều, hai xị rượu, mỗi xị chỉ vơi lưng nửa –.
Cam Ly đã yên lòng, nói khẽ:
- Cảm ơn thầy Nam nhé. Đôi lúc buột miệng …
Nam cười, cũng nói khẽ:
- Tượng trưng thôi … Vàng mã ấy … Phải rất nghệ thuật!
Và trong óc Nam lại nảy ra một ý tưởng rất tếu, tếu là vỏ, còn ruột rất chân thật: tu sĩ Phật giáo cũng là “cụ giáo trực quan” (tấm gương sáng cho đạo hữu noi theo) đấy chứ. Nhưng Nam kịp tránh qua chuyện khác.
Lát sau, Khoai xin trả tiền tất, vì với tiền dạy phụ trội, lại không phải trừ phần trăm tập sự, lương anh cao nhất trường! Bà Tặng giãy nãy khi thấy dĩa thịt vẫn còn nguyên. Mọi người nói thật, không thể nhét vào đâu được nữa, bà mới chịu. Khoai cũng mừng khi thấy bà Tặng rất sòng phẳng bên cạnh tính bộc trực.
Chia tay anh Ruộng, anh Trà, sáu anh em bước trong gió đêm đã lạnh. Họ cơ chừng đã nghe bớt lạnh phần nào. Một vầng trăng non chênh chếch phía sau lưng, soi ánh sáng xanh nhòa trong sương loãng.
- Đúng là cả “một sàng khôn”, có điều không thể ăn hết.– Lộc Biếc nói –. Em vẫn còn rùng mình khi nhớ giáo cụ trực quan của đồng chí Quỳnh, thư kí Công đoàn! Chẳng hiểu sao ông ấy đóng góp cho bộ môn sinh vật của Lụa cả một cái sọ người thật! Kinh thật! Ổng định làm Hăm-lét (Hamlet) chắc!
Bất chợt Nam ngâm nga theo bước chân:
- anh cầm chi trên tay cái sọ trắng siêu hình
lải nhải lai nhai tồn tại hay không tồn tại
cả dân tộc bay lên cùng thời đại (26)
muốn sống ư? Chỉ có thể sống anh hùng!

Ba tiếng “Chế Lan Viên” của Nam lại buông nhanh trong đêm, kèm tiếng cười khẽ vui vui bởi kịp nhớ đúng lúc.
Sáu anh em lặng lẽ bước về nhà tập thể, với sự hưng phấn của niềm rung cảm trong ánh trăng.
- Chế Lan Viên tự đối thoại đấy.– Lộc Biếc nói, bỗng bằng giọng trầm ngâm, rơi vào suy tư theo bản tính vốn nhạy cảm với triết lí của cô –.
- Anh Trà cũng hay đó chứ,– Cam Ly nói bâng quơ –, thảo nào cô Xinh khá thân …
Mỗi người tiếp nối một ý nghĩ trên đường về.

18

Hai tháng nay, Nam đọc thấy trong đôi mắt bé Ngoan một điều gì đó làm anh băn khoăn. Nhiều lần, vào giờ ra chơi giữa buổi học, Nam giữ bé Ngoan lại để chuyện trò với ý định dò hỏi, tuy chỉ bằng những câu bâng quơ. Nam đã xem thành tích biểu bốn năm Ngoan học cấp một ở Quảng Ngãi, hỏi cô Phước, năm kia cô ấy dạy Ngoan, và cả cô Lụa, giáo viên chủ nhiệm lớp sáu năm ngoái, còn hỏi các giáo viên bộ môn nữa, để xem thử vì sao Ngoan học sút hẳn một cách khá đột ngột. Mới tháng đầu của năm học này thôi, Ngoan vui tươi, học khá tốt. Trong các tiết dạy, Nam thấy bàn tay với nét mặt rất tự tin của Ngoan, lúc xin phát biểu, ngay sau khi câu phát vấn của anh vừa dứt. Bây giờ, Ngoan lơ là, thảng hoặc lại xa xăm, bối rối, buồn rầu. Nam chẳng biết dùng một từ nào thật chính xác để gọi đúng tên tâm trạng Ngoan đang gặp phải. Anh cũng để ý đến vóc dáng của cô bé mới hơn mười hai tuổi. Nam hơi buồn cười vì sự tò mò của mình, nhưng không thể khác được. Đôi mắt sư phạm buộc anh phải tế nhị quan sát. Và qua chị Xinh, mẹ Ngoan, anh hiểu bé Ngoan chưa có biến đổi tâm sinh lí nào đáng kể. Có sự chênh lệch nào giữa tuổi tâm lí và tuổi sinh lí không?
Nam thấy những quan tâm của anh cũng chẳng đi đến đâu. Mớ kiến thức tâm lí giáo dục trong anh chỉ là các khái niệm. Nam mỉm cười nhớ một câu thơ của chính anh hồi đang theo đại học năm thứ hai: “ngực dậy thì nứt áo hồn nhiên” (27). Câu thơ ấy Nam đã buột miệng lúc gặp em gái của một người bạn, lúc bạn ấy cùng Nam về quê thăm nhà. Tấm áo hồn nhiên của tuổi hồn nhiên nghèo khó! Có thể đó là áo đón tuổi của con nhà nghèo đã quá chật! Có điều, tuy với cảm quan thơ, Nam cũng không hiểu nổi cô bé học trò của anh, cô bé còn là bà con xa của anh nữa! Nam đành tự bảo, quan tâm cũng tổ vô ích! Tự bảo thế, Nam vẫn biết anh hãy còn chưa hết lòng với học trò. Nhưng học trò lớp Nam chủ nhiệm đến ba mươi hai em, trong đó có đến mười em là nữ! Là “kĩ sư tâm hồn”, Nam thấy để hiểu một cô bé mới mười hai tuổi đầu, khó biết bao, nữa là đến ba mươi hai em không ai giống ai với hoàn cảnh, môi trường riêng khác nhau! May cho Nam, lớp anh chủ nhiệm chỉ có Ngoan, Ka Tem hơi lạ, cả K’Bẻo, cần lưu tâm, và Qua, cậu bé rất thông minh trong các trò chơi lành mạnh cũng như nghịch phá, nhưng học quá kém, kể cả những môn không nặng tính hệ thống, đòi hỏi phải có căn bản ở các lớp dưới, như môn sử ở cấp cơ sở.
Quá mệt bởi nhiều việc, Nam đành cho rằng chính anh đã phức tạp hóa vấn đề. Anh toan buông xuôi, rồi lại áy náy.
- Mẹ dạo này cứ la mắng Ngoan phải không?– Một lần đã lâu, Nam hỏi –.
- Thưa thầy, không có …– Ngoan nói nhanh, và ngừng lại –.
- Ông bà nội với chú Hải mắng chứ gì?
- Dạ không.– Ngoan ngước lên nhìn thầy giáo, hơi ngạc nhiên –.
Rồi Ngoan chợt hiểu. Cô bé hơi nhợt nhạt sắc mặt, run giọng:
- Dạ có ạ. Dạo này em học hơi sút, từ hôm kiểm tra chất lượng …
Nam cố mỉm cười, nói từ tốn:
- Tại sao như vậy?
Ngoan lúng túng, úp mặt xuống bàn. Nam thấy vai cô bé rung lên trong tiếng khóc kìm lại.
Nam hiểu ra, cô giáo Xinh không quan tâm lắm việc học của con gái mình, ít ra là gần đây! Không, chỉ mới gần đây thôi! Hai tháng nay, Nam cũng thấy gương mặt xanh xao hơi sớm già của chị Xinh gầy hẳn, lại nhớn nhác lo âu.
Cách đây một tuần, trong khi cùng anh em tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ ở bàn ăn tập thể, chú ý nhìn Đồi Hương trình bày trên bảng đen những bài toán vui cấp một và giai thoại vui về các nhà toán học, Nam chợt thấy một gương mặt ló vào sau tiếng kẹt của cánh cửa. Có lẽ người đẩy khẽ không ngờ cửa lại kêu to đến vậy. Gương mặt ấy hốt hoảng rụt lại. Nam biết không ai khác hơn là Ngoan.
Nam vội bước ra, mở cửa, gọi nhỏ:
- Ngoan! Ngoan!
Cô bé đang bỏ chạy bỗng dưng sựng lại bởi tiếng gọi của thầy giáo. Nếu không phải tiếng gọi của thầy giáo Nam, có lẽ cô bé không thể đứng lại. Ngoan đứng lại vì nể sợ thầy chủ nhiệm, và vì lòng biết ơn sự quan tâm, mà Ngoan rất bứt rứt, của chính thầy giáo mình.
Dưới bóng trăng, cô bé òa khóc. Nam đành bảo Ngoan đợi đó, rồi vào căn nhà nam, bật lửa, châm đèn. Bước ra hàng hiên, Nam gọi khẽ:
- Ngoan! Em vào đây.
Ngoan sợ hãi như sắp bị phạt.
- Vào đây! Ngoan!– Nam cố dịu giọng –.
Khi cô bé ngồi xuống, cúi đầu, gỡ móng tay dẫu chẳng có gì để gỡ, Nam ôn tồn hỏi:
- Ngoan tìm mẹ phải không?
- Dạ.– Ngoan vẫn cúi gầm mặt, nấc lên –.
- Không phải mẹ bệnh hay bận việc gì sao?
Cô bé lắc đầu, cắn môi nén tiếng khóc. Ngoan nấc lên rồi khóc thành tiếng với một nỗi đau khổ kì lạ.
Nam không đủ kiên nhẫn để gạn hỏi nữa, sau rất nhiều câu hỏi của anh, Ngoan chẳng chịu trả lời. Nỗi đau khổ của cô bé mới mười hai tuổi đầu với sự im lặng tức tưởi khiến Nam vừa chua xót vừa bực mình. Vậy là chị Xinh đã bỏ buổi tự học tập thể tối nay!
Không thể tế nhị được nữa, Nam nói khẽ:
- Thầy hiểu lâu rồi. Chính ông Trà đã làm khổ mẹ con Ngoan phải không? Thầy là thầy giáo, là cậu họ của Ngoan, em hãy nói cho thầy rõ!– Nam làm như đã nắm rõ mọi điều –.
Cô bé im sững tiếng khóc thút thít, rồi lại gật đầu, bật khóc như rên rỉ bởi nỗi khổ đau em đang chịu đựng. Nam giật mình.
Nam rót cho cô học trò nhỏ một li nước. Bỗng Ngoan uống ực một hơi, đưa tay áo chùi miệng. Một tia lửa kì lạ trong mắt của cô bé chợt lóe lên. Nam sững sờ chờ phút giây Ngoan sẽ nói hết những gì đã giày xéo trái tim bé bỏng của cô bé, lại bất ngờ, cô bé nói nhanh vài lời xin phép rồi vụt chạy, không đợi Nam cho phép.
Nam nhìn theo chiếc bóng bé nhỏ của Ngoan trong ánh trăng sáng vằng vặc và lạnh buốt.
Nam đành vừa đi vừa chạy theo cô bé Ngoan. Khi thấy bóng cô bé bước vào bậc cửa sáng đèn, Nam ngần ngừ, rồi quay bước về lại với buổi tự học, tự bồi dưỡng đang dở dang. Một cảm giác vừa mừng, vừa buồn, vừa nhục nhã, vừa cảm thông khiến Nam bàng hoàng, ngẩn người.
Nam hiểu anh chưa đến nỗi như nhà toán học mừng rỡ đến phát cuồng, vì tìm ra một đáp số bí hiểm như Đồi Hương đang kể, cũng không phải như Ngoan, có thể đang đau lòng đến lịm người ở nhà, ngỡ cả đất trời đang vỡ vụn, nhầy nhụa thành bùn.

19

Ngoan nằm úp mặt trên gối, nước mắt cứ lặng lẽ trào ra. Đêm nay, cô bé muốn thức suốt. Hồi nãy, lúc ở nhà tập thể của thầy cô, sau cơn đau đớn, nhục nhã đến bàng hoàng khi phát hiện ra mẹ đã trốn học, cô bé suýt ngã nhào vào cánh cửa khép hờ. Có lẽ Ngoan vừa muốn nhìn cho rõ sự thật, vừa không làm chủ được bản thân mình, khi sự thật đã giáng cho cô bé một đòn muốn té úp. Lúc thầy Nam rót nước vào li, cô bé chợt hi vọng nước chè thật đậm, đậm đến đặc quánh như nội thường uống, để đêm nay Ngoan lại thức như hôm nào.
Trước ngày thi kiểm tra chất lượng nửa học kì, Ngoan dại dột uống một li nước chè đậm đặc để ôn bài, với hi vọng sẽ giành được điểm cao cho thầy giáo chủ nhiệm vui lòng. Không ngờ cô bé sau khi lên giường nằm bên mẹ, rúc vào nách mẹ xin mẹ đừng trách sao chả ngủ đúng giờ, lại cứ thao thức mãi. Nhắm mắt, vẫn tỉnh, rồi lơ mơ, lại tỉnh, Ngoan không cách nào ngủ say được. Ngoan mệt đến bần thần, cứ trở mình, khiến mẹ càu nhàu, vuốt lưng Ngoan, cho đến khi mẹ ngủ thiếp. Đêm khuya, những tiếng động của cây lá rõ đến rợn người. Cô bé co rúm trong chăn, bỗng nghe mẹ ú ớ, quờ tay, rồi thốt lên thì thầm, tha thiết: “Anh Trà! Anh Trà! Em yêu mà …”. Ngoan sửng sốt. Ngoan muốn hét to, khóc lớn cho hả. Nhưng Ngoan mệt quá, nỗi đau xót khiến cô bé nghẹn tắc. Mẹ cô bé lại nói như khóc trong cơn mê sảng với âm sắc da diết, van vỉ: “Anh Trà! Anh Trà! Anh nghĩ lại giùm …”. Ngoan nằm im, mong có thể chết đi lúc ấy.
Sáng sớm, được mẹ đánh thức, cô bé tự hỏi sao không chết trong nỗi mệt lả người với nỗi đau nhường ấy.
Ngoan đến trường với mẹ, những mong đêm qua cô bé Ngoan mồ côi cha chỉ gặp ác mộng. Song cô bé tự biết không thể là mộng mị được. Và bài kiểm tra chất lượng chỉ là trang giấy nguệch ngoạc sai bét. Rồi tiếp đến là những ngày u uất, bơ thờ, lơ đễnh.
Ngoan không dám hỏi mẹ cho ra lẽ, cũng chẳng hé môi cho ông bà nội lẫn chú Hải rõ. Ngoan đọc thấy tội lỗi trên gương mặt vốn đã xanh xao kinh niên của mẹ.
Rõ ràng mẹ Ngoan đã không còn chung thủy một lòng với cha Ngoan rồi! Hình ảnh của cha trên bàn thờ vẫn còn đó. Một cảm giác ghê tởm, lờm lợm, khi nhìn mẹ thắp hương, lâm râm khấn niệm, hay lúc thấy mẹ ngửa cổ nhăn nhó nuốt bát nước hà thủ ô, đã dấy lên trong Ngoan. Ngoan không cách nào theo mẹ vào rẫy đào đất rất sâu để moi củ hà thủ ô được nữa. Càng thương cha, Ngoan càng muốn mẹ đừng bao giờ hồng lại làn da như trước. Ngoan chẳng hiểu vì sao cô bé Ngoan là mình lại căm hận đến độc ác với mẹ như thế. Ngoan cơ chừng phát sốt lên vì ghen tuông thay cha mình, những đêm mẹ vắng nhà, vắng tới lúc sắp đến giờ ngủ mới về! Nhưng trội lên vẫn là sự tủi nhục đến cay đắng. Và không chỉ vậy.
Hai tháng rồi, trong tâm tư cô bé Ngoan mới mười hai tuổi đầu, mưa to, bão giật không ngớt. Ngoan không thể quên được đêm uống nước chè đậm đặc ấy, cũng không làm sao xóa bỏ nổi một buổi tối sau đêm ấy mười hai hôm. Buổi tối đó, trăng cao nguyên vẫn bao la ánh sáng, thứ ánh sáng trong vắt hòa tan trong bóng đêm và hơi sương lạnh. Ngoan quyết nhận rõ thực hư, lén đi theo mẹ. Mẹ bảo mẹ lên nhà tập thể giáo viên để tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Ngoan không tin. Ngoan theo bước mẹ đi về cuối khu trung tâm, rồi cũng cách mẹ khoảng vài trăm mét, cô bé lại theo mẹ quay về đầu xóm, ngang qua nhà nội, với sự phập phồng, hồi hộp đến thắt tim. Ngoan biết mẹ đánh lạc sự chú ý của mọi người, trước khi đến nhà ông Trà bằng một lối tắt. Quả thật như thế. Ông Trà đã đóng cửa quán, đang thắp ngọn đèn hột vịt trong căn nhà tranh cách quán một vạt dâu tằm. Ngoan run rẩy, sục sôi căm giận khi nép mình trên thềm đất nhìn qua khe ván.
Ở mé giường, ông Trà ngồi bên mẹ, mỉm một nụ cười, Ngoan nhận thấy quá đểu cáng.
- Xinh lại đến với anh. Cảm ơn Xinh.
Trong ánh đèn mờ, bấc đèn nhọn búp lửa như hạt bí, gương mặt mẹ Ngoan không còn vẻ xanh xao của bệnh thiếu máu. Ngoan nóng cả người khi thấy bỗng dưng mẹ quá đĩ thõa, ngước nhìn ông Trà với vẻ e thẹn, say đắm. Cô giáo đó sao!
- Anh Trà nhớ Xinh không?– Mẹ nũng nịu! –.
Ông Trà gật đầu:
- Nhớ, nhớ nhiều lắm.
Đôi mắt mẹ Ngoan mờ đi như rưng rưng. Ngoan thấy đôi mắt ấy long lanh, tình tứ rất đáng ghét, như người đàn bà lẳng lơ bị cả làng phỉ nhổ, trong một bộ phim nào đội lưu động về chiếu năm ngoái, như Tào Thị trong truyện Phạm Công – Cúc Hoa nội thường kể cho Ngoan nghe. Ngoan bủn rủn cả người khi nghĩ mình còn đáng thương hơn cả Nghi Xuân, Tấn Lực!
- Vậy là chúng mình đến với nhau cả năm trời rồi. Sao anh Trà … Anh Trà không thương Xinh sao?
Ông Trà quàng một tay qua cổ mẹ Ngoan, tay kia áp vào má, khẽ day mặt mẹ Ngoan lại. Ông Trà cúi xuống. Ngoan muốn hét to lên, song cô bé nhắm chặt mắt, rồi ù té chạy. Ngoan suýt vấp vào tấm biển đề ngữ “Sơn sửa xe đạp” trên hai thanh gỗ chôn bên lề đường.
Ngoan thảng thốt, ràn rụa nước mắt. Ngoan chạy, chạy mãi, không biết chạy về đâu. Không thể về với nội! Mộ cha Ngoan ở tít ngoài Quảng Ngãi, làm sao Ngoan về!
Bóng trăng chợt mênh mông, rợn lạnh.
Ngoan chạy, rồi bước chậm xuống tận cuối khu trung tâm. Cô bé chợt nhớ đến cậu – thầy Nam. Nhưng không. Không thể. Không nói với ai hết, phải tự nuốt sự phẫn hận, nỗi tủi nhục, niềm tan vỡ trước người mẹ kính yêu bỗng chốc trở thành đĩ thõa, lăng loàn. Ngoan chạy tiếp, lại bước chậm xuống xóm cuối, một xóm có vườn tược như xóm Ngoan, định lần mò theo triền dốc bên này suối đá để tới chiếc cầu treo nối đường vào rừng.
Nước suối lấp loáng trăng, mài mòn lòng đá, róc rách, róc rách. Cầu treo dưới ánh trăng như thể đu đưa.
Ngoan chẳng biết đi đâu. Ngoan không có ý định lên cầu treo để nhảy xuống suối đá. Không. Cô Lụa năm ngoái có bảo, tự tử là hèn nhát, là đầu hàng hoàn cảnh. Sao chân Ngoan lại chạy đến đây như ma quỷ dẫn đường?! Khói đá, hơi nước tỏa lên lạnh buốt. Ngoan rùng mình. Ngoan níu tay vào một gốc dâu tằm trên triền đất bên cạnh, và bấm chân xuống đất. Ngoan bỗng sợ té ngã trên đường mòn nghiêng dốc này. Ngoan chẳng hiểu sao mình lại liều lĩnh đến thế. Ban ngày, đi lối dốc này còn sợ kia mà.
Ngoan bỗng cẩn thận tìm đường về thật ngắn. Băng qua triền dâu có lẽ chắc chắn nhất, nhỡ trượt chân còn có dâu để níu. Ngoan leo lên triền đất, bước, bước, mê mải. Lá dâu đẫm sương, lấp lánh, quẹt sương vào mặt, vào cổ cô bé.
Ngang qua nhà tập thể giáo viên, Ngoan bỗng muốn ghé vào. Ngoan bước vào, rồi đứng bên hàng rào, suýt lọt chân xuống hố đất trồng su su có điều chẳng thấy su su đâu. Đèn vẫn sáng, các thầy cô còn làm việc, tuy cửa đã khép vì khuya lạnh.
Ngoan muốn nói hết với thầy chủ nhiệm. Nhưng, không, không bao giờ hé môi. Ngoan gọi thầm, thầy ơi, và khóc với hai hàm răng cắn chặt môi, rồi vụt bỏ chạy, sợ tiếng khóc đánh động thầy cô. Ngoan chạy như ma đuổi. Sương ướt cả vai áo. Đôi chân trong dép nhựa ướt sướng nhớp nháp bùn đất.
Ngoan chợt muốn hét lên vì cặp chó nhà nào với nhà nào đang vờn nhau dưới trăng, bỗng sủa lên inh ỏi. Đang chạy, Ngoan phải chậm chân lại. Không nhà nào mở cửa khi trời mới sụp tối, nữa là lúc này. Bản năng tự vệ buộc Ngoan phải bình tĩnh. Trước sự đe dọa của chó, phải rất bình tĩnh. Vâng, phải bình tĩnh, đừng hốt hoảng. Ngoan bước chậm như người vô cùng thanh thản. Cô bé cúi xuống định vớ cái roi dâu ai vứt trên đường. Cũng không. Đừng để chó ngỡ mình tấn công. Cặp chó ngơ ngác lại vờn nhau dưới trăng. Bất giác, Ngoan nhổ một bãi nước bọt. Tuy nhiên, phải bình tĩnh.
Ồ, phải bình tĩnh. Đúng rồi, phải bình tĩnh. Phải bằng mọi cách giành lại mẹ cho cha. Mẹ phải về lại với gia đình nội trọn vẹn. Phải dũng cảm như Kim Đồng. Anh Kim Đồng ơi … Nhưng sao lại có Kim Đồng trong chuyện này! Ồ đúng rồi, cô Lụa bảo em bé nào cũng là Kim Đồng trong bất kì tình huống nào, ngay trong từng việc nhỏ của kế hoạch nhỏ. Lượm giấy vụn cũng Kim Đồng cơ mà, nữa là giành lại mẹ cho cha, cho chính Ngoan, cho ông bà nội và chú Hải. Mẹ phải là mẹ đảm, dâu ngoan, chị tốt!
Ngoan lại bật khóc, muốn chạy trốn, khi thấy bóng mẹ với chú Hải đang hớt hải đi tìm Ngoan. Tuy nhiên lúc này Ngoan không còn cách nào khác hơn là hi vọng mẹ vẫn lại là mẹ. Mẹ lại là mẹ như năm nào, phải không, mẹ ơi … Mẹ khóc kìa, còn chú Hải vừa cáu vừa mừng rỡ vì tìm gặp được Ngoan. Cô bé bỗng nắm lấy tay chú Hải như kéo riêng chú về nhà, muốn bỏ mặc mẹ một mình trong đêm. Chú Hải giật tay lại, không hiểu gì cả, mắng Ngoan phát khùng!
Sau đêm đó, Ngoan cảm sốt mất hai hôm. Ngoan uống thuốc giỏi hơn bao giờ, để chóng lành bệnh. Ngoan biết mình phải làm gì.
Nhưng có làm được gì đâu với mẹ!
Tối nay, mẹ lại trốn học rồi!
Ngoan những muốn thức suốt đêm nay, khi còn ngồi ở nhà tập thể với thầy Nam. Song có lẽ đó không phải nước chè đậm đặc. Lúc ực một hơi, Ngoan đâu biết nước gì. Chắc là nước hà thủ ô hay râu bắp gì đó thôi. Ngoan nhớ là đã thấy màu nâu sậm của chè buồm mà.
Ngoan mệt mỏi rã rời, nhướng mí mắt lên, cố nhướng, lại nhắm mắt thiếp đi. Hình như nội có đến sờ trán Ngoan và đắp chăn cho cô bé. Ngoan lơ mơ rồi chìm sâu vào giấc ngủ trẻ thơ, mới mười hai tuổi đầu!

20

Từ hôm trót gật đầu trước câu hỏi của thầy Nam ở nhà tập thể giáo viên, Ngoan hối hận quá. Lẽ ra, Ngoan không hé môi, chả bày tỏ một cử chỉ nào xác nhận tội lỗi của mẹ, cho dẫu với bất kì ai đi nữa. Ông bà nội và cả chú Hải cũng chưa hay biết, chỉ thấy mẹ con Ngoan dạo này có khác đi, rồi ai cũng bận trồng dâu nuôi tằm, chăm sóc các vạt đất hoa màu ở lũng thấp, đâu nghĩ gì khác hơn. Ngay cả cô giáo Xinh cũng chỉ mơ hồ thấy con gái có hơi lạ, nhưng cũng cho là sắp đến tuổi nhổ giò, tuy chưa thấy dấu hiệu cơ thể nào khác hơn núm vú trái cau đã có trái tràm từ năm ngoái. Song dần dần cô giáo Xinh cũng bắt đầu hiểu dù chưa đoan chắc.
Từ buổi theo sát bóng mẹ đến nhà ông Trà, rồi đi lang thang vì căm phẫn, nhục nhã, tan vỡ hình ảnh bấy lâu về mẹ, Ngoan cố tìm mọi cách để đưa tâm hồn của mẹ về lại với cha, tuy cha đã mất. Trong những chuyện cổ tích nội ông, nội bà kể, người chết đi, linh hồn vẫn còn, và chết càng trẻ như cha Ngoan, linh hồn càng vưởng vất trong nhà để chăm sóc, vỗ về, bảo ban con cái. Ngoan không rõ. Sao cầu nguyện bao lần để được gặp cha lúc Ngoan thức, cha vẫn không về! Còn trong giấc mơ, thỉnh thoảng được trò chuyện với cha, nhưng thằng Qua cùng lớp có chết đâu vẫn hiện ra trong giấc mơ của Ngoan với các trò chơi quậy phá đáng ghét của nó, cả ông Trà độc ác, đểu cáng, lừa bịp mẹ nữa, đã chết đâu, sao cũng có trong giấc mơ của Ngoan! Dẫu sao, Ngoan vẫn quyết giành lại mẹ cho cha, giành lại mẹ cho gia đình Ngoan, và quan trọng nhất, mẹ hãy mãi là mẹ nguyên vẹn của cha Ngoan như thuở cha còn sống.
Ngoan bỗng chăm thắp hương cho cha, lau dọn bàn thờ, khung ảnh cha sạch bóng, cả những lư hương thờ ông cố, bà cố nữa. Ngoan cố ý làm cho mẹ thấy để nhắc nhở mẹ về truyền thống gia phong như nội dạy Ngoan.
Cô giáo Xinh nhiều lần thấy thế, chẳng hiểu vì sao. Cô Xinh chưa hiểu, nên rất xúc động.
- Ngoan dạo này hiếu quá. Mẹ thương nhiều đó nghe!
Ngoan im lặng, quắc mắt, vẫn không nhìn mặt mẹ.
Cô Xinh mơ hồ hiểu ra, giật mình, chột dạ.
Một buổi tối, cô Xinh suýt giật thót người khi Ngoan đem chiếc khăn tay đã cũ ra ngồi thêu, chỉ thêu lại màu đen, vì các loại chỉ màu khác chẳng biết tìm đâu. Trên nền vuông khăn trắng, có bốn chữ màu bút chì: “Tiết hạnh khả phong”, chữ “Tiết”đang được thêu dở dang. Cô giáo Xinh hoảng hốt nhìn cha mẹ chồng với chú Hải đang chuyện vãn. Lạnh toát, bối rối. Có lẽ nào mọi việc đã phơi bày? Cô giá Xinh run run níu mép bàn đứng dậy, vào giường nằm, gác tay lên trán, nén tiếng thở dài. Mới mười hai tuổi đầu, Ngoan đã đáo để đến vậy sao! Có ai mớm ý cho nó chăng?
Sáng hôm sau, Ngoan lại đặt vuông khăn thêu xong lên bàn thờ, lấy lư nhang đằn lại một cạnh để khăn khỏi bay. Cô giáo Xinh sực nhớ, lâu lắm rồi, cô có kể cho Ngoan chuyện tích xưa về người quả phụ thủ tiết thờ chồng nuôi con, được vua ban tặng bốn chữ vàng “Tiết hạnh khả phong”; về sau, thời thế đổi thay, bị quan huyện ép cưới, đã dùng dao tự sát trước bàn thờ. Cô giáo Xinh đâu ngờ Ngoan còn nhớ! Nhục nhã, bởi trước hết, cô đã phản bội chính cô. Ngày cô kể ấy, cha Ngoan đã chết vì bệnh ở nhà thương Quảng Ngãi được bốn năm, Ngoan mới bảy tuổi! Và sau buổi sáng xuất hiện vuông khăn “Tiết hạnh khả phong”, cô giáo Xinh bỗng gầy sút, bơ phờ, hốc hác hẳn.
Cô giáo Xinh chờ sự chửi rủa của cha mẹ chồng, hình dung ngày phải cắp nón ra đi, bỏ lại Ngoan cho ông bà, mà chẳng biết đi đâu! Giấc ngủ cô giáo Xinh không yên, thỉnh hoảng mở mắt sau cái giật mình, ú ớ.
Cô chẳng ngờ con gái cô lại giáng lên trái tim tội nghiệp mới ba mươi hai tuổi của cô những đòn cân não đau đớn vậy. Chú Hải, ông bà nội biết hết rồi sao?
Sáng sớm tuần trước, Ngoan đánh răng xong, chợt la lớn ai đã đập vỡ lư hương với ba đầu rau bằng đất nung trên bếp. Cô giáo Xinh mới nấu nước hồi sớm, thấy vẫn còn nguyên, sao lạ thế. Đang chải lại tóc, chuẩn bị đến trường, cô bước nhanh xuống, với cả ông bà nội, chú Hải. Không thể mèo nhà ai nhảy làm đổ được. Chạm nền đất, lư hương và ba đầu rau không thể vỡ vụn thế, dù có đổ!
- Ai làm vỡ?– Ông nội cau mày –.
- Cháu không biết.– Ngoan đáp –.
- Con cũng không rõ, ba mẹ à.– Cô giáo Xinh thưa khẽ, ngồi thụp xuống nhặt –.
Ông nội lên bàn thờ thắp nhang, khấn vái.
- Chắc điềm gì rồi đây.– Bà nội nhìn trời, chép miệng than –.
Cô Xinh muốn co rúm người lại bằng con giun, nhưng cố giữ vẻ bình thường, đến góc bếp cầm chổi.
Khi chú Hải và bà nội lên nhà trên, chỉ còn mẹ con Ngoan, cô giáo Xinh bỗng đâm ra rụt rè trước đứa con mới học lớp bảy của mình, không hỏi có phải Ngoan đập vỡ không.
- Đàn bà hai chồng mà thờ với cúng!– Ngoan bỗng chua ngoa đến kinh ngạc –.
Cô giáo Xinh rụng rời, đứng tựa vào phên tranh. Cô hoảng hốt biết lưng áo đã dính đầy khói bồ hóng. Đứng sững một lúc, khi thấy bóng con gái ra ngõ với bao ni lông đựng sách vở, cô mới vội lên nhà, thay áo để đến trường.
Cô giáo Xinh không thể ngờ con gái bé bỏng, mười hai tuổi ngoài đời, với một tuổi trong lòng cô, lại đáng sợ đến thế. Chi đội trưởng của lớp bảy – chi đội Sống Như Anh (28) – của cô Lụa và thầy Nam đấy! Cũng không hoàn toàn do vậy. Thầy Nam mới về trường, gần đây còn không biết vì sao Ngoan thay đổi đột ngột, đã hỏi cô, và cô cũng nói chả có gì cho xong việc.
Trên đường đến trường, cô giáo Xinh đau đớn nhớ lại, cách đó mấy hôm, cũng trên đường hai mẹ con đến trường, Ngoan nói:
- Mẹ ơi, hồi hôm con nằm mơ thấy cha.
- Vậy à? Cha nói gì không?– Cô Xinh vuốt tóc con –.
- Cha bảo mẹ đừng lấy chồng, nhất là đừng tư tình kiểu lén lút, lăng loàn.– Ngoan nặng lời –.
Cô Xinh sững bước, còn Ngoan nhanh bước.
Cô Xinh nhớ và buồn tủi biết bao. Biết nói làm sao cho con gái bé bỏng của cô hiểu! Chính cô, cô cũng chẳng thể nào hiểu trái tim bùng cháy, khát khao, mê muội ba mươi hai tuổi của cô! Cô giáo Xinh chợt thấy mình cúi gầm trên đường đi. Cô giật mình, gắng ngẩng mặt bình thường để bước.
Ngoan đã đến lớp, ngồi gục mặt trên bàn, mặc tiếng cười đùa, nghịch ngợm vô tư của lũ bạn trai.
- Ngoan bị bệnh hay sao vậy?– Một người bạn gái hỏi –.
- Ừ.– Ngoan đáp –.
Ngoan nhớ ba đầu rau vỡ, lư hương vỡ, chẳng hiểu vì sao Ngoan lại cả gan trút hết phẫn nộ, nhục nhã vào đó. Cô bé bỗng thấy thấm thía nỗi sợ hãi. Ngoan không ngờ đã dám dằn mặt mẹ như vậy. Ngoan táo tợn đến vậy sao. Ngoan vẫn thấy Ngoan đúng, tuy đã ân hận.
Chuyện cả gan, táo tợn ấy đã xảy ra cách đây một tuần, và mới hai hôm đây thôi, Ngoan đã gật đầu xác nhận trước câu gạn hỏi của thầy Nam. Lúc này, ngẫm nghĩ, cô bé thấy hết cách lay chuyển được mẹ. Mẹ còn dối nhà, trốn học! Ngoan biết làm sao bây giờ! Ngoan thấy Ngoan mồ côi cả cha lẫn mẹ thật rồi.
mồ côi cha ăn cơm với cá
mồ côi mẹ liếm lá đầu đường!

Cũng không phải trách mẹ, trách trời?
trời mưa bong bóng phập phồng
mẹ đi lấy chồng, con ở với ai!

Có phải lời trách cay đắng đó không? Những bong bóng âu lo, hồi hộp, sợ hãi, thoắt hiện thoắt vỡ … Ngoan rùng mình. Và Ngoan chợt tỉnh lại, thấy mình đã vẩn vơ suy nghĩ đến dở hơi. Không. Không có gì cả đâu. Ngoan chỉ muốn mẹ mãi là mẹ, vẹn nguyên của cha, của Ngoan, của ông bà nội và chú Hải như thuở nào. Mẹ đừng lầm lỡ, nhuốm bùn tội lỗi như Ngoan đã thấy nữa. Ngoan không muốn mẹ tự sát trong Ngoan, trong mắt mọi người bằng cách đó! Nhưng Ngoan thấy chẳng còn cách nào để cứu mẹ. Chẳng có ông bụt nào hiện ra, hỏi vì sao Ngoan khóc!
Ngoan gục mặt, khi ôm đầu gối trên bậu cửa, khi đứng tựa vách nhà, khi ngồi trước trang sách, cả khi đi trên đường, tự hỏi, mình có vô lễ, bất hiếu với mẹ không, Ngoan có còn là Ngoan không! Bao lần nước mắt Ngoan chảy ràn rụa. Có ai cứu được mẹ cho Ngoan không. Nói với nội, với chú Hải, biết đâu sẽ to chuyện, vỡ lỡ. Kể hết với thầy Nam – cậu Nam – để thầy cứu mẹ chăng? Không. Không cứu được đâu. Ngoan chỉ muốn chạy tới nói với thầy Nam, cái gật đầu hôm kia chỉ do Ngoan gật bừa.
Ngoan bao lần chảy nước mắt khi chạnh nghĩ, thế là mẹ như đã chết, Ngoan mất hẳn mẹ rồi, và rồi hai nội sẽ già, sẽ không còn nữa trên đời, chú Hải rồi cũng lấy vợ, Ngoan sẽ bơ vơ lúc chưa trưởng thành. Ngoan bao lần nghĩ thế, khóc tức tưởi, cố giấu nước mắt và cả tiếng khóc.
Ngoan chợt thấy lóe lên trong óc một tia sáng: ngay từ bây giờ Ngoan phải tự cứu lấy số phận Ngoan. Đừng mong cứu mẹ nữa, hãy cứu lấy đứa trẻ mồ côi là chính mình. Phải học! Phải kiên quyết khai trừ mẹ ra khỏi dòng họ, khỏi trái tim Ngoan. Phải khai trừ mẹ, hãy tự cứu lấy số phận mình. Ngoan cứ luẩn quẩn với ý tưởng đó! Ngoan nghe đầu óc Ngoan xoáy tít, trái tim bé bỏng của Ngoan bị ném từ cầu treo xuống suối đá, tan nát. Ngoan không thể là anh Kim Đồng, tuy chỉ giành mẹ lại, để mẹ mãi là mẹ, cô Lụa ơi. Ngoan bỗng sợ hãi, bởi Ngoan đã dám đập vỡ lư hương của hai ông Táo và một bà Táo, đập vỡ cả ba đầu rau, hình tượng của họ. Táo quân vào cuối tháng chạp sẽ lên tâu với Ngọc hoàng, Ngọc hoàng sẽ sai Thiên lôi đánh sấm sét xuống mái nhà của Ngoan, mọi người trong nhà sẽ thành tro bụi! Ngoan rùng mình. Cũng sắp đến ngày hai mươi ba tháng chạp rồi. Ngoan hối hận quá. Ngoan cũng tự nghĩ, luật nhà Trời cho phép mẹ có hai chồng sao? Ngoan cắn răng: Thì mặc nhà Trời, mặc mẹ! Ngoan bất giác khinh Trời, khinh mẹ quá thể. Ngoan quên phắt Ngoan chỉ mới mười hai tuổi. Mười hai tuổi, Ngoan làm sao giải mã được hình tượng Bếp lửa điển tích, làm sao hiểu được trái tim người đàn bà chỉ mới ba mươi hai tuổi!
Ngoan sực nhớ một câu ca dao:
dù ai nói ngả nói nghiêng
lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân!

Lại còn thế nữa cơ chứ! Bếp lửa bừng bừng dục vọng lăng loàn, chẳng chính chuyên duy nhất! Không thể được, nhà Trời ạ. Ngoan khinh bỉ cả ca dao, khinh bỉ cả tín ngưỡng dân gian! Ai biện hộ, bao che, cho phép mẹ như thế, kể cả Trời, kể cả dân gian, đều là kẻ thù của Ngoan, vì mất mẹ là mất tất cả, cần gì! Ngoan phải hỏi cô Lụa – chị tổng phụ trách Liên chi đội. Nhưng cô Lụa đi Đà Lạt để được tập huấn thêm rồi. Vâng, Ngoan phải hỏi thầy Nam, cả cô Lộc Biếc nữa, mặc dầu cô Lộc Biếc không dạy lớp bảy. Vâng, Ngoan đã nổi loạn thật rồi!
Chẳng lẽ như thầy Nam đùa sao, Hoàng Thị Ngoan Ngoan với “ngoan” lấp láy, là hơi ngoan, chứ không phải điệp từ “ngoan, ngoan”, có nghĩa là rất ngoan?!

Xin xem tiếp phần III

0 Comments:

Post a Comment

<< Home